trong tù nếu bị đưa vào nên luật pháp Anh tại đây không quy định bỏ tù mà
chỉ phạt tiền người Masai. Việc vô phương giữ dân Masai sống được dưới
gông cùm đã khiến họ, trường hợp duy nhất trong các bộ tộc bản địa, nằm
cùng nhóm với sắc dân nhập cư Somali quý tộc.
Lũ chim ăn thịt đồng loạt ném những ánh mắt hau háu về đám gặm nhấm
hiền lành của vùng cao này. Dân Somali giữ vai trò riêng ở đây. Không giỏi
khi tùy ý hành động, bởi họ đều rất dễ bị kích động, và dù ở đâu chăng nữa,
hễ cứ được tùy tâm hành xử y rằng họ sẽ phí hoài thời gian và xương máu
vào chuẩn mực luân thường đạo lí của bộ tộc. Tuy nhiên họ lại là các phó
tướng tài ba, và có lẽ những tư bản gia Ả Rập xưa thường để người Somali
đảm đương những phận sự hiểm nguy hay các chuyến vận chuyển nhiều
cam go khi bản thân vẫn ở yên Mombasa. Vì thế mối liên hệ của dân
Somali với người bản địa cũng gần hệt như giữa đàn chó chăn cừu với bầy
cừu. Chúng canh lũ cừu không biết mệt, hàm răng sắc nhọn luôn nhe ra.
Liệu đàn cừu có sống nổi tới bờ biển? Hay là chúng sẽ bỏ trốn? Dân Somali
ham tiền và vật chất, họ sẽ bỏ ăn bỏ ngủ vì khoản thù lao, và sau hành trình
thiên lí trở về chỉ còn da bọc xương.
Nếp sống ấy vẫn tồn tại trong máu họ. Khi đồn điền có dịch cúm Tây Ban
Nha
, dù đang sốt run lẩy bẩy nhưng Farah vẫn theo tôi đi khắp làng trên
xóm dưới mang thuốc phát cho lưu dân, ép họ dùng. Nghe nói sáp nến trị
bệnh này rất hiệu quả, anh cũng lặn lội quyết lấy đem về. Cậu em út của
Farah tên là Abdullai, dạo ấy đang ở chỗ tôi, mắc cúm rất nguy kịch khiến
anh đứng ngồi không yên. Tuy thế, việc này chỉ vỏn vẹn là một mối bận
lòng, một vấn đề vặt vãnh. Nhiệm vụ, bánh mì và thanh danh thảy nằm cả ở
đội ngũ lao động của đồn điền đâm ra dẫu có sắp chết chó chăn cừu vẫn cứ
nai lưng phụng sự bổn phận. Farah cũng thông tỏ những chuyện đang diễn
ra trong cộng đồng người bản xứ, mặc dầu tôi chẳng rõ từ đâu anh có được
sự hiểu biết ấy, bởi ngoại trừ là người nắm cương vị quản lí họ, anh chẳng
hề gần gũi dân Kikuyu.