gừ lên rồi nhảy chồm hất văng chú Toto. Tôi chụp lấy sợi dây và phải tận
lực mới ghìm được nó lại. Đứng nhìn đám thú tôi quay qua Farah: “Con gì
thế nhỉ?”
Trên thảo nguyên rất khó phán đoán kích cỡ, khoảng cách. Bầu không khí
rung rinh và cảnh sắc đơn điệu là nguyên nhân, ngoài ra còn do đặc điểm
những cây gai mọc đó đây có hình dáng hệt cây đại thụ rừng già, có điều
thực tế chỉ cao tầm ba thước rưỡi và hươu cao cổ có thể vươn đầu bên trên.
Bạn không ngừng bị lầm về kích cỡ con thú nhìn thấy đằng xa, và lúc giữa
trưa hoàn toàn có thể nhầm chó rừng thành linh dương, hay đà điểu thành
trâu. Một phút sau Farah đáp: “Đấy là chó hoang, Memsahib ạ.”
Thông thường ta bắt gặp chó hoang đi theo tốp, chừng ba bốn con, nhưng
đôi khi tình cờ chạm trán cả tá cũng có. Dân sở tại khiếp đảm chúng và sẽ
bảo bạn đó là quân khát máu ăn thịt người. Bận nọ, đang ruổi ngựa trong
Khu bảo tồn ngay kế đồn điền, tôi đụng phải bốn con chó hoang và bị
chúng lẵng nhẵng đeo bám cách độ năm chục thước. Hai con chó sục nhỏ
tôi mang theo chuyến ấy liền dính chặt vào tôi, thực tế cả hai đã chạy ngay
bên dưới bụng chú ngựa lùn, cho đến tận lúc vượt sông vào lãnh thổ đồn
điền. Chó hoang không to bằng linh cẩu, chỉ tương đương con béc giê cỡ
lớn, lông đen, riêng ở chót đuôi và ở tai nhọn có màu trắng. Da chúng
không dùng được vào việc gì, lông cứng lởm chởm, bốc mùi gớm ghiếc.
Ở đây số lượng chó hoang lên tới cả năm trăm con. Cả đàn phóng nước
kiệu tới gần, theo cách thức kì lạ nhất: chẳng hề ngó nghiêng mà cơ hồ
đang bị thứ gì đuổi sau lưng, hoặc như đang cắm cổ chạy tới một cái đích
định sẵn. Tới gần chỗ chúng tôi, cả lũ chỉ hơi nắn lại hướng di chuyển và
vẫn giữ nguyên tốc độ, tuy nhiên như trước, chẳng có gì cho thấy chúng
nhìn ra chúng tôi. Khoảng cách sát sạt nhất giữa đôi bên chỉ tầm bốn mươi
lăm thước. Đàn chó trải dài, hai hay ba hoặc bốn con sóng vai chạy nên
phải mất một hồi lâu mới qua hết. Farah bảo: “Những con này đều mệt bã,
chúng hẳn vừa vượt một chặng đường dài.”