chuyện lạ lùng về sự tàn phá chúng để lại đằng sau - trên mạn Bắc, các
trang trại ngô, lúa mì hay cây ăn trái nhất nhất đã biến thành vùng hoang
mạc mênh mông sau khi chúng qua. Dân khai khẩn gửi phái viên chạy tới
láng giềng ở phía Nam loan báo đàn châu chấu sắp đến. Dẫu được cảnh
báo, bạn cũng chẳng thể phòng chống gì nhiều, ở tất cả các trại, người ta
chuẩn bị sẵn hàng đống củi hoặc đống thân cây ngô rồi châm lửa đốt lúc
châu chấu tới, cũng như cắt cử toàn bộ nhân công mang theo thùng sắt tây
hoặc hộp rỗng để ra ngoài gào hét và gõ ầm ĩ hầu dọa không cho châu chấu
đậu xuống. Nhưng đấy chỉ là sự trì hoãn ngắn ngủi, bởi dù con người có
làm chúng sợ tới đâu chăng nữa thì châu chấu cũng chẳng thể ở mãi giữa
hư không, sở cầu duy nhất của nông dân chỉ là xua chúng dạt tới trang trại
kế tiếp phía Nam, và càng nhiều trại dọa được chúng bỏ đi bao nhiêu thì
chúng càng háu đói và liều lĩnh bấy nhiêu ở điểm đậu xuống, ở phía Nam
đồn điền tôi tiếp giáp với các thảo nguyên mênh mông trong Khu bảo tồn
Masai, nên có thể hi vọng khiến được bầy châu chấu bay tiếp qua sông vào
Khu bảo tồn.
Từng tiếp nhận vài ba phái viên do những láng giềng là dân khai khẩn trong
vùng cử đến thông báo châu chấu đang tới, nhưng chẳng thấy có gì xảy ra,
tôi đã bắt đầu tin tất thảy chỉ là cảnh báo nhầm. Một buổi chiều tôi cưỡi
ngựa tới dhuka, cửa hàng tạp hóa bán nhu yếu phẩm cho nhân công cũng
như lưu dân đồn điền, của Abdullah, em trai Farah. Dhuka nằm bên vệ
đường cái, và một người Ấn trong chiếc xe hai bánh lừa kéo đậu ngoài
dhuka nhổm lên vẩy tay ra dấu khi thấy tôi ngang qua, vì anh ta chẳng thể
dong xe lên được chỗ tôi dừng ngựa trên đồng cỏ.
“Đàn châu chấu đang tới đất của bà đấy,” anh ta nói khi tôi thúc ngựa đến
nơi.
“Họ đã báo nhiều bận,” tôi đáp, “có điều nào thấy gì đâu. Có lẽ tình cảnh
không tệ như người ta nói.”
“Xin bà hãy ngoảnh lại,” người Ấn kia bảo.