tượng nổi nó chính là áo quan Kinanjui. Tôi chẳng hiểu vì đâu người ta lại
sử dụng nó, có lẽ bởi đây là thứ họ có sẵn ở Hội truyền giáo Scotland.
Nhưng bằng cách nào người ta nhét được Kinanjui vào và giờ tư thế nằm
của ông trong ấy ra sao? Người ta đặt cỗ áo quan xuống đất, sát chỗ tôi
đứng.
Nắp áo quan gắn một tấm bảng lớn bằng bạc trên ghi, về sau tôi được thuật
lại, đây là món quà Hội truyền giáo tặng Thủ lĩnh Kinanjui kèm thêm một
câu trích từ Kinh Thánh.
Thủ tục tang lễ kéo dài lê thê. Chức sắc trong các giáo đoàn, người này tiếp
nối người kia, tiến lên phát biểu, và tôi đoán phần lớn là những tuyên tín và
răn dạy tràng giang đại hải. Song tôi chẳng hề nghe tất thảy các lời ấy mà
chỉ đứng bám chặt sợi thừng vây lấy mộ Kinanjui. Một số tín đồ Thiên
chúa người bản xứ cũng tiếp bước tiến lên, phát biểu oang oang trên trảng
trống.
Sau cùng Kinanjui được hạ vào lòng đất mẹ, được đất chở che.
Mấy cậu gia nhân tôi đưa tới Dagoretti để họ được dự tang lễ sẽ nán lại hàn
huyên cùng thân bằng quyến thuộc rồi đi bộ về sau thành ra chỉ có Farah và
tôi lái xe trở về. Farah im lìm như nấm mộ mà chúng tôi vừa bỏ lại sau
lưng. Với anh, thật khó nuốt trôi sự thật là tôi đã không đem Kinanjui về
nhà mình, vậy nên hai ngày qua anh như một linh hồn lạc lối, con mồi của
ngờ vực và phiền muộn.
Đến khi xe về tới trước cửa anh thốt lên: “Memsahib, thôi không sao.”