chân mình, mỗi lần bất chợt thoáng thấy khung cảnh bên ngoài từ độ cao
ghê gớm ấy là cậu lại thót cả tim.
Thứ Năm tôi mong ngóng Denys quay về, trong bụng tính anh sẽ bay từ
Voi lúc bình minh, mất hai giờ để tới Ngong. Rồi chẳng thấy Denys đâu
trong khi sực nhớ ra một số việc cần phải làm ở Nairobi nên tôi lái xe vào
thành phố.
Ở châu Phi, mỗi bận hễ ốm mệt hay quá lo lắng, tôi lại bị một ám ảnh kì lạ
đeo bám. Đó là dường như xung quanh tôi mọi thứ đều đang lâm vào hiểm
nguy hay bất trắc, và giữa lúc tai ương như thế chính tôi, vì lí do này khác,
lại đứng nhầm phe, do đó bị cả thiên hạ nghi ngờ, e ngại.
Trong thực tế cơn ác mộng này là hồi ức về thời chiến tranh. Bởi dạo đó vài
năm liền, người ở xứ thuộc địa này tin rằng trong thâm tâm tôi là kẻ ủng hộ
bọn Đức, và nhìn tôi với ánh mắt ngờ vực. Mối tị hiềm này xuất phát từ
thực tế chẳng bao lâu trước khi nổ ra chiến tranh tôi, do suy nghĩ chân
thành ngây thơ, đã lên tận Naivasha mua sắm ngựa cho người đứng đầu
quân Đức ở Đông Phi, tướng Paul von Lettow. Ông ta, trên chuyến tàu
cùng tới châu Phi, đã nhờ tôi mua giúp mười con ngựa giống Abyssinia,
nhưng lúc chân ướt chân ráo mới qua tâm trí tôi còn để ở nhiều thứ khác
thành thử nhãng đi, tới mãi sau này khi ông liên tục viết thư bàn chuyện
ngựa giống tôi mới thu xếp lên mạn Naivasha mua chúng cho ông. Liền sau
đó chiến tranh bùng nổ nhanh tới độ số ngựa này chẳng bao giờ được
chuyển đến tay người Đức. Tuy nhiên tôi không thể lẩn tránh được sự thật
là vào thời điểm nổ ra chiến tranh lại đang mua sắm ngựa cho quân Đức.
Mối hiềm nghi tôi phải gánh, tuy nhiên không kéo dài tới cuối cuộc chiến
mà chấm dứt khi cậu em tôi tự nguyện tham gia lực lượng Anh rồi được
tặng thưởng huân chương chữ thập Victoria trong trận tổng tấn công
Emiens
; phía Bắc Roye. Sự kiện này thậm chí được loan tin trên tờ East
African Standard dưới hàng tít: Một tấm huân chương chữ thập của Đông
Phi.