và bốc mùi nồng hắc - dù mang áo mưa, đi ủng cao su nhưng chỉ thoáng
chốc tôi đã ướt sũng như thể vừa lội ngang một dòng suối. Đất trời nơi đây
vô cùng tĩnh lặng, chỉ những lúc mưa nặng hạt hơn mới vẳng nghe tiếng
rào rào từ mọi hướng. Khi màn sương tách ra, tôi thấy một dải xám xanh
trước mặt, tựa như một phiến đá - đây hẳn là một trong mấy đỉnh núi xa xa
- tuy nhiên chỉ thoáng sau nó lại bị che phủ bởi mưa và sương xám giăng
khắp lối. Tôi cứ thế mải miết đi rồi rốt cuộc cũng phải ngưng bước bởi
chẳng thể tìm được gì cho đến lúc trời quang hơn.
Gustav Mohr tìm tới sau ba bốn lần réo gọi hòng xác định tôi đang ở đâu.
Mặt mày cùng hai tay anh đầm đìa nước mưa. Anh thông báo chúng tôi đã
mò mẫm trong sương suốt cả tiếng đồng hồ, và nếu giờ còn chẳng quyết
định chỗ đặt mộ thì sẽ không kịp giờ.
“Nhưng giờ còn chưa nhận ra mình đang ở đâu,” tôi nói, “mà ta chẳng thể
an táng anh ấy vào chỗ bị mấy đỉnh núi che khuất tầm mắt được. Hãy ráng
đợi thêm chút nữa đã.”
Chúng tôi đứng lặng yên giữa đám cỏ cao, tôi lấy một điếu thuốc ra hút.
Ngay lúc tôi vừa quăng đi mẩu thuốc còn sót lại thì sương mù tản ra ít
nhiều, và một thứ vật chất xám lạnh, trong veo bắt đầu điền đầy cả thế gian.
Chúng tôi có thể nhìn ra mình đang ở đâu trong khoảng thời gian mươi
phút. Thảo nguyên trải dài phía dưới, và mắt tôi giờ có thể lần theo con
đường mình vừa đi qua: nó lượn theo sườn núi, bò lại chỗ chúng tôi đang
đứng rồi tiếp tục uốn mình trườn ra xa. Tít về hướng Nam, bên dưới những
lớp mây vần vũ, là dãy núi xanh ở chân đỉnh Kilimanjaro. Quay nhìn lên
mạn Bắc, trời hửng hơn, trong một thoáng không trung bị các tia sáng nhạt
màu cắt xiên qua và có một vệt nắng bạc dựng thẳng đứng trên vai ngọn
Mount Kenya. Đột nhiên, gần gặn hơn nhiều, ngay phía Đông bên dưới
chân chúng tôi, là chấm đỏ duy nhất, bé xíu giữa cả một miền rặt sắc xám
cùng xanh - mái ngói nhà tôi giữa rừng. Chẳng phải tìm kiếm thêm nữa,
chúng tôi đã ở đúng chỗ. Lát sau, mưa lại tiếp tục rơi.