có thể đưa cho bạn mình xem áo xống đứa trẻ dẫu biết bạn đang thầm nhủ:
“Ơn Chúa, không phải mình,” - và với cả đôi bên đây là việc tự nhiên, hợp
nhẽ. Ingrid cùng tôi cũng vậy. Khi sóng bước khắp đồn điền, tôi biết Ingrid
đang nghĩ tới nông trại của chị, mừng rỡ bởi hạnh vận đang đồng hành
cùng mình, và tận lực níu giữ suy nghĩ này, thế nhưng sự thể chẳng hề
khiến hai đứa tôi khó xử. Bỏ qua mấy tấm áo manh quần vải kaki sờn cũ
bận trên người, thực tế chúng tôi là đôi bạn gái thần thoại, người trắng kẻ
đen, một chỉnh thể đồng nhất, cặp genie
của cuộc đời làm nông xứ châu
Phi.
Mấy hôm sau Ingrid từ biệt tôi đáp tàu hỏa về Njoro.
Chẳng còn ngựa để ra ngoài rong ruổi, các chuyến đi dạo không mang theo
chó của tôi giờ trở nên cực kì im ắng và đủng đỉnh, nhưng dẫu sao tôi vẫn
mừng là còn chiếc ô tô bởi có nhiều việc đòi hỏi phải chạy đi chạy lại trong
những tháng ấy.
Số phận các lưu dân khiến lòng tôi nặng nề như đeo đá. Bên mua dự định
nhổ sạch cà phê rồi phân lô bán đất xây nhà, nên chẳng màng gì tới lưu
dân, và ngay khi hoàn thành thương vụ, họ đã thông báo tất cả mọi người
sẽ phải rời khỏi đồn điền trong vòng sáu tháng. Quyết định này quá đột
ngột cho lưu dân, làm nảy sinh hoang mang bởi họ vẫn sống trong ảo tưởng
mảnh đất là của mình. Nhiều lưu dân sinh ra tại đồn điền, còn lại đều tới
đây cùng cha ông từ khi còn nhỏ.
Để được ở trên đất này, lưu dân biết họ phải làm công cho tôi mỗi năm một
trăm tám mươi ngày với mức thù lao ba mươi ngày nhận mười hai shilling,
các sổ sách, chi phiếu vẫn được lưu giữ tại văn phòng đồn điền. Họ cũng
biết trách nhiệm trả khoản thuế lều cho chính quyền, mười hai shilling mỗi
lều, một gánh nặng oằn vai cho những người chẳng có gì trên trần gian
ngoại trừ hai, ba mái lều cỏ - tùy vào số vợ, vì người chồng Kikuyu phải lo
cho mỗi vợ một túp lều riêng. Lưu dân đồn điền, lâu lâu lại bị đe sẽ trục
xuất khi phạm lỗi nên phần nào hẳn cảm thấy vị thế của họ chẳng phải hoàn