nữa. Mỗi khi bác ấy cố nói một điều gì đó với tôi trong bữa ăn – trong khi
bác ấy thậm trí chưa bao giờ nói chuyện với em gái thì dì Letty bao giờ
cũng cố chặn bác ấy lại. Dì nói “Không phải lo cho thằng bé đâu, Andrew”
hoặc “Em chắc là Digory không muốn nghe chuyện đó” hoặc là “Nào,
Digory, cháu có muốn ra ngoài vườn chơi không?”
- Thế bác ấy cố nói chuyện gì vậy?
- Tôi không biết, bác ấy không bao giờ đi quá xa. Nhưng còn có
chuyện gì nữa… Một đêm – thực ra là đêm hôm qua – trong lúc tôi đi
ngang qua chân cầu thang dẫn lên phòng áp mái để về phòng ngủ (tôi cũng
chẳng thích thú gì cái chuyện đi ngang qua đấy đâu) tôi nghĩ mình nghe
một tiếng kêu hốt hoảng.
- Có lẽ ông ấy nhốt một người vợ điên ở trên ấy.
- Phải, tôi cũng cho là thế.
- Hoặc giả ông ta đang làm tiền giả.
- Hoặc cũng có thế bác ấy là một tên cướp biển. Giống như người đàn
ông ở đoạn đầu câu chuyện Đảo giấu vàng nên phải trốn chui trốn lủi tránh
những tên đồng bọn cũ.
- Ái chà, tất cả những chuyện này có cái gì thật kích động đây! – Polly
reo lên. – Thế mà tớ chưa bao giờ nghĩ là nhà bên ấy lại có gì hấp dẫn đâu.
- Cậu có thể nghĩ là nó thú vị. – Digory buồn bã nói. – Nhưng cậu sẽ
không thích thế đâu, nếu buộc phải sống ở đó. Làm sao cậu thích được khi
nằm nín thở lắng nghe tiếng bước chân của bác Andrew rón rén đi dọc hành
lang vào buồng ngủ của cậu? Mà bác ấy có đôi mắt trông đến sợ.
Chuyện xảy ra vào những ngày đầu mùa hè. Năm ấy, cả hai đứa trẻ
đều không đi nghỉ mát ngoài biển nên hầu như ngày nào chúng cũng gặp
nhau.
Đó là một trong những mùa hè ẩm ướt và lạnh lẽo nhất trong bao năm
qua. Thời tiết buộc chúng phải chơi những trò chơi trong nhà: bạn có thể
gọi đó là những khám phá trong bốn bức tường. Tuyệt vời biết bao khi bạn
có thể đi thám hiểm trong một ngôi nhà rộng hoặc trong cả một dãy nhà với
một mẩu nến.