Khói bốc. Khói của lạnh. Hắn ăn. Những thìa "phớ" thấm vào tôi từ
môi đến sâu dạ dày. Người phớ hạ nón kê dép ngồi quạt. Hắn nhai miếng
phớ mềm nhũn chỉ cần nuốt cũng được. Ve nữa đi. Cho vui tai. Cho đỡ
buồn. Đỡ nhớ. Ngày xưa ông cụ tôi thường dẫn đi ăn phớ ở bên hồ Gươm.
Thế ạ, ngày bác còn nhỏ? Hắn gật đầu. Khi ấy có như bây giờ? Đặc hơn.
Không có khói. Chỉ tiếng rao! Tiếng rao thì vẫn vậy... Chuyện! Tính của
nghề mà bác!? Ừ, cũng mùa hè... Tôi nhớ ngày xưa lắm. Vâng! Bác là
người hạnh phúc...
Hắn ăn bốn bát. Ăn xong đưa tay lên lau miệng nhìn chị hàng phớ
mỉm cười. Chị phớ cũng mỉm cười rồi em đi bác ạ. Tôi e ngại một điều gì.
Như con sâu ở đâu đó, đâu đó, à đúng rồi, con sâu bò phải một cành cộc
cây phượng xõa sát mặt hồ. Ông cụ thì đã ra người thiên cổ... Hắn buồn
chẳng muốn bước. Cái quần đã xộc. Cái áo đã xệch. Đôi chân đã bám bụi
đường. Tôi nhìn vào rỗng. Hắn có vẻ phân vân giữa đi hay đứng yên. Rồi
hắn bước. Đầu cúi, mắt nhìn đường. Suy tư. Tay đút túi quần. Tay xách cặp.
Thỉnh thoảng chân trần đá một lá rơi.
Tôi nhớ hồi còn bé ngồi trong lớp học cạnh cửa sổ nhìn ra sân trường
có hàng xà cừ vuông góc, to lớn, vẫn thường thẫm dầm về mùa đông và đổ
lá mùa hè. Lên cấp ba trường chuyên vẫn giữ nguyên cái thú này, nhìn
ngắm lộc non, ngày nọ ngày kia, ngạc nhiên sửng sốt về khả năng sinh sản
của loài xà cừ, chỉ qua một đêm mà nhú búp, búp xòe tím tái, đêm nữa, lá
non tơ, đêm nữa thì đã có màu xanh, đã biết khe khẽ cười với gió, mỉm môi
với nắng và trầm ngâm với chiều.
Hắn ngửng lên. Một cây đang trút lá. Hắn ngửng lên. Miệng hơi há.
Mắt căng ra. Hắn ngửng lên. Như có kinh hãi xen trong ngạc nhiên ấp úng
và bất lực. Một chiếc lá rơi chạm nhẹ sau lưng cũng làm hắn giật mình.
Ngơ ngác. Rồi lập tức bước nhanh như trốn một sự truy đuổi nào. Cứ mỗi
phút, mỗi lần quay lại đằng sau. Thỉnh thoảng ngước lên rồi cúi nhanh.
Thỉnh thoảng quay ngang. Thỉnh thoảng như chạy gằn. Điệu bộ lúc lon ton,