Họ đã tới những chân trời định mệnh dành riêng. (Những chân trời, đôi khi
tôi có thầm mơ ước.) Như Thục, của tình cờ, gặp lại. Như Thảo, chưa qua
tuổi hai mươi, trên chuyến xe bus nối Processing Center và trại Một, đọc tôi
nghe bài thơ, tôi muốn quên, “sinh nhật, 12”.
Nhưng, cách gì, dù cho gió khuya hiện thực hay, mưa, bão ẩn ức, tưởng
tượng có làm thành nhị trùng cảm, nghiệm rối ren, (thì), cuối cùng, tôi cũng
hiểu ra, những ngày ngắn ngủi, ở Texas, mới đây, chính là những cánh tay
lay, giựt tôi ra khỏi giấc ngủ, muộn.
Là buổi trưa, với V.N (hay H.) đã ném những đêm mưa, những ngày gió
Houston, 1993, vào lại tâm hồn tôi không phên/ vách. Những ngày Cao
Đông Khánh hiên ngang như một Từ Hải lấn cấn giữa biểu hiện cao bồi
miền viễn Tây và, người hùng phương Đông huỡn huỡn (không... gươm
giáo.) Những ngày N. đem cơn điên phơi giữa đường Bell; trước khi mang
chăn, gối ngủ trong chiếc xe Toyota cũ (của L.C.) do tôi vứt lại ở parking
dài hạn, phi trường. Những tối C. tìm tôi nhầu, nát (như những ngọn cây
sung nhầu, nát) đường Milam/ Travis...
Hiểu một nghĩa nào, họ cũng đã rời xa. Quá xa. Họ cũng đã tới những chân
trời định mệnh dành riêng. (Những chân trời, đôi khi, tôi cũng thầm mơ ước
tạt ngang, dừng chân, thăm hỏi.)
Cũng có thể, tôi nghĩ, chính những buổi tối, với Đ.K., P.H., với L.V., N.B,
V.K. những thâm giao đã xô, đẩy tôi ngã giập mặt vào những bài thơ cũ/
mới. Những bài thơ cũ/ mới đi ra từ tôi. Xong. Mất hút. (Như sự mất hút
nhiều buổi tối, T. lúp xúp mang về lênh láng những trận mưa dai dẳng cay
nghiệt; cùng những con gió thủ trong tay áo, hàng chục lưỡi dao bén, rét,
cắt ngọt, thịt, da. Nơi chúng tôi ăn những bữa cơm tối, với giấy báo, trên
mặt bàn dã chiến cùng, ngọn đèn treo lửng bấp bênh (và), tiếng hú quẫn
bách của con Cocaine; kéo theo tiếng thở dài ngao ngán (rụt rè) của Tề
Thiên, Chí Phèo.