Ngọn đèn đâu khoảng 4, 5 chục watts được bật lên. Căn phòng hình ống
biến thành chữ “L”. Một bàn, một ghế, bị vây khốn bởi sách báo, tranh vẽ.
Chúng tràn lan từ đất tới trần, ở cạnh dài. Chúng chỉ chừa một khoảng nhỏ,
đủ cho một người rón rén bước vào. Cạnh ngắn cũng là sách báo cao trên
đầu người mà, trên cùng là tầng tầng tranh vẽ không ngày tháng. Không
chữ ký. Hầu hết đen/ trắng. Như những lớp lá rừng, rụng xuống. Chất chồng
lên nhau theo thời gian.
Người có “Những ngón tay bắt được của trời”, bước vào đầu tiên. Ông ngồi
xuống bàn vẽ. Khi chiếc ghế duy nhất được kéo ra thì, dù muốn cũng không
ai có thể tiến gần, đứng sau lưng, để nhìn ông vẽ hoặc, ngắm nghía những
tube mầu, giấy, bút, mực Tầu... Nhưng, dường chẳng ai có cho họ toan tính
ấy. Tất cả tuồng bị đóng băng. Tê liệt. Tôi chỉ nghe được những thốt kêu
“ô!...” “a!...” Những xuýt xoa bật ra như phản ứng mất kiểm soát của những
kẻ ngỡ ngàng, đờ đẫn trước kho báu!
Họ bẵng quên tôi. Không ai nhớ rằng, tôi vẫn còn một chân ngoài... “họa
thất”.
Trước tình cảnh bất động của các bạn, tôi chợt hiểu, tôi chẳng thể có cho
mình một chọn lựa nào khác hơn, chen lấn để có một chỗ (dù ké né) trong
kho tàng.
Dưới ánh đèn neon, những tấm tranh đen/ trắng không ngày tháng, không
chữ ký, dội lên. Đụng trần. Rớt xuống. Hai sắc mầu căn bản, khởi nguồn
như trời/ đất bay quầng trong mắt tôi. Tới phiên tôi lúc đó, bị chôn đứng
trong trận bão đen/ trắng...
Tôi không biết điều gì đã dẫn tôi tới cảm nhận: Cuối đời, một họa sĩ đã lặng
lẽ bôi xóa mọi kỹ thuật, kinh nghiệm huân tập bao nhiêu năm, để trở về với
những khoảng đất trời đen/ trắng nguệch ngoạc, hồn nhiên trẻ thơ... Tôi
nghĩ, nó cũng tựa như một kiếm khách, một cao thủ võ lâm, quên tiệt mọi
chiêu thức. Những đường kiếm phóng ra của ông, chệch choạng, loạng