Ông Trưởng Ban Văn Nghệ ra chào chúng tôi. Nụ cười dễ dãi, cái đầu
hói bóng lưỡng.
- Mấy ông nghe con nhỏ Huệ ca ngon lành không! Tối nay nó là Tân
Bạch Huệ hát sáu câu Tuyệt Tình Ca.
Ông Phó nhìn Mẫn châm chọc:
- Còn cô Dung thì ca bản gì vậy.
Ông bầu văn nghệ trịnh trọng lấy trong túi áo ra tờ chương trình viết tay.
- Con Dung ...à Tân Mỹ Dung sẽ ca bản Chuyện tình Lan và Điệp.
Tôi đứng lên xạo với Mẫn.
- Thôi tao đi về Giang Đoàn ngủ lấy sức tối coi văn nghệ. Mầy vô trỏng
dợt với ca sĩ Tân Mỹ Dung đi chớ. Đừng để bể dĩa mất mặt lắm đó nghe!
Ông Phó tay cầm cây cơ bi da.
- Lấy tàu mà về, tới trưa nói tụi nó ra đón tôi về.
Tôi từ chối. Từ chợ về Giang Đoàn chỉ hơn một cây số. Tôi vẫn thường
một mình đi dọc theo bờ kinh. Chân bước, lòng bâng quơ nhớ về những
điều rất cũ. Một khuôn mặt, một góc phố đâu đó trong đời. Và như thế, hình
như buồn phiền đã bay đi ít nhiều theo con gió châu thổ mênh mang trời
nước.
Hạnh ngồi phía sau quầy hàng bánh kẹo chào vọng ra. Tôi bước len lỏi
qua khu chợ phiên đi về phía bến sông. Con gái đi chợ Tết xong bơi xuồng
về nhà. Trên xuồng ngổn ngang hàng vải và những nhánh mai nhánh cúc
bằng nhựa vàng sặc sỡ. Từ trên cầu nhìn xuống lòng ngã tư kinh, hàng mấy
chục chiếc xuồng bơi tỏa ra bốn hướng trông như những chiếc lá tre trong
vũng nước mưa đọng thời tuổi nhỏ.
Nắng cuối năm ở đồng bằng nhàn nhạt ngây ngây, phảng phất cơn gió
nhẹ có vừa đủ thênh thang để cánh đồng đước bao la cũng xao xác nghiêng
mình. Gần hai năm ở vùng nước thấp làm tên lính thú thực sự. Và còn bao
lâu nữa. Cho tôi. Cho bạn bè. Cho những người trong cuộc chiến tranh này.
Ngôi giáo đường trước mặt vẫn im lìm kiên nhẫn soi bóng xuống dòng
kinh chờ mùa nước rút, điêu tàn tượng Chúa Hài Đồng bơ vơ đêm thánh.
Bóng chiếc thập tự trên nóc tháp chuông lung linh đáy nước, gãy đổ lời
nguyện không thành. Lời kinh man mác điệu hò châu thổ từ ngôi chùa bên
bờ kinh Mỹ An vẫn quyện trong gió sớm, trong hương nồng buổi trưa