giống người ta”. A Phủ lại ngồi xuống nướng thịt, vừa làm
vừa chửi.
Thấy A Phủ quả quyết và chửi rủa bố con thống lý như
thế, Mỵ cũng lây cái bình tĩnh lại.
Chỉ một lát im lặng, rồi những lo sợ lại đến day dứt.
Mấy hôm bị bắt đã không làm cho Mỵ yên tâm ngay được.
Mỵ lo nhà cháy, ngô lúa hết, bây giờ lại cặm cụi cày cuốc
lấy lương ăn, như ngày mới sang đây, vất vả, khổ cực, mà
chắc đâu đã được. Hay là ta đi. Ý nghĩ “lại đi” luẩn quẩn, gạt
đi lại trở lại, và khi nhớ, lại ghê sợ nhớ xa cả đến cái chết
giữa dốc của vợ A Chế. Mỵ càng thêm bị day dứt, hoang
mang, khó nghĩ.
A Phủ đã nướng xong miếng thịt bò tót, quẳng xuống
mặt ván, reo:
- Có lương khô đem đi cứu người già trẻ con rồi.
Mỵ định nói rồi lại thôi. Lưỡng lự mãi sau Mỵ mới nói
muốn đi ở nơi khác.
A Phủ sầm mặt:
- Thằng Tây bắt một ngày mà nó đã làm cho cái gan của
em bé đi rồi... A Châu đã bảo ta giữ đường này cho bộ đội,
thì ta giữ đường này cho bộ đội.
Nghe nói đến A Châu, Mỵ tỉnh. Mỵ vẫn thường nghĩ: Đời
có bố mẹ thì bố mẹ đã chết. Bây giờ mới thấy A Châu,
mới biết có người tốt. Giữa hoảng hốt, nay bỗng thoáng
lên những chuyện thủy chung, Mỵ lại bồi hồi mong chờ.