nhưng rõ ràng. Hôm nay, như để tang cho họ hàng xa, cô mặc áo, đội mũ
màu xanh đen, trùng với màu mắt. Sự hiện diện của cô khiến phiên tòa bớt
phần nghiêm nghị, cứng nhắc. Mặt mũi không còn “hình sự”, quý ông
trong ban bồi thẩm như muốn tươi cười đón người đẹp. Ngay đến quan tòa
cũng tỏ ra đặc biệt lưu tâm. Giữa hàng lố đàn ông, Madeline quả là của
hiếm, đem đến luồng gió thanh tân.
“Tòa nhắc lại: Trật tự, trật tự nào!” quan tòa lại phải kêu gọi. “Xin cô
cho biết quý danh.”
“Madeline Elspeth Dane.”
“Niên kỉ?”
“35.”
“Địa chỉ hiện tại, thưa cô?”
“Monplaisir, gần Frettenden.”
“Cô Dane,” quan tòa nói nhanh nhưng dịu dàng, “được biết cô muốn
cung cấp thông tin về nạn nhân quá cố. Cô vui lòng cho hay đó là thông tin,
bằng chứng gì.”
“Vang, tôi sẽ nói. Nhưng chẳng biết phải bắt đầu từ đâu.”
“Có lẽ tôi giúp được.” Burrows đứng dậy, vẫn giữ vẻ đĩnh đạc, song mồ
hôi đầm đìa. “Cô Dane, có phải…”
“Ông Burrows,” quan tòa cáu tiết, “ông liên tục làm gián đoạn phiên
pháp y, tỏ ra thiếu tôn trọng quyền hạn của tòa, và của chính ông. Việc này
không thể dung thứ. Hãy nhớ: Sau khi tòa đã hỏi nhân chứng xong, mới
đến lượt ông. Bây giờ, hoặc ông im lặng, hoặc lập tức đi ra. Hừ! Mời cô
Dane.”
“Xin đừng cãi nhau.”
“Chúng tôi không cãi nhau, thưa cô. Song đây là tòa, cần được tôn trọng.
Chúng ta họp nơi đây để xác định vì sao nạn nhân qua đời. Và dù thiên hạ