mạnh như đồng hồ. Khói nắng xuyên vào qua cửa sổ chói chang, làm
Madeline nheo khóe mắt.
“Chiếc bản lề cong, thưa cô Dane?”
“Vâng. Tôi không hiểu nó mang ý nghĩa chi. John cũng không hiểu.”
“Xin cô tiếp tục.”
“Những năm đầu ở Colorado, John cứ phập phồng, sợ người ta phát hiện
điều gì sai trái và tống mình vào tù. Trong vụ đắm tàu, hai ngón tay của ảnh
bị dập nát, nên không thể cầm bút cho chuẩn, viết chữ rất khó khăn. Hơn
nữa, ảnh cũng e dè, chẳng bao giờ viết thư về nhà. Ảnh muốn gặp bác sĩ,
khám xem mình có khùng không, nhưng lại hãi không dám đi, sợ bác sĩ tiết
lộ bí mật cho kẻ khác.
“Thời gian trôi qua, chiến tranh bùng nổ rồi chấm dứt. Nỗi sợ của John
dần bớt. Ảnh tự nhủ: Thôi bỏ qua, ấy chỉ là sự cố không may trong đời
người. Rồi ảnh đến khám bác sĩ tâm thần. Ông này kiểm tra đủ bài, kết luận
ảnh là John Farnleigh thật, không có chi phải lo lắng nữa. Tuy vậy, nỗi ám
ảnh không mất đi. Nhiều khi John tưởng đã quên, song đến tối lại mơ về
nó.
“Dudley chết, cũng là lúc John phải đối mặt với quá khứ: Ảnh phải trở
về Anh để thừa kế tước hiệu và điền trang. Nói thế nào nhỉ? John cũng
hứng thú, vì lí trí bảo: về đến nơi, ắt sẽ nhớ ra. Rốt cuộc lại chẳng nhớ gì.
Chính vì thế mà ảnh thất thường. Nhiều lúc ảnh đi lang thang như ma. Con
ma tội nghiệp, không biết bản thân là ma hay người. Nhưng ảnh yêu điền
trang lắm, yêu từng tấc đất. Ảnh không còn nghi ngờ nhân thân của mình,
song vẫn muốn làm cho thật rõ mọi chuyện.”
Madeline cắn môi, lia cặp mắt sáng và nghiêm nghị ra khắp khán phòng.
“Tôi thường an ủi John, bảo ảnh đừng suy nghĩ quá nhiều, dần dần rồi sẽ
nhớ. Để giúp ảnh khôi phục kí vãng, tôi thường dàn dựng, hay vờ vô tình
nhắc lại chuyện xưa. Chẳng hạn, tối đến, tôi mở máy hát, cho văng vẳng