khoang phải xông vào can. Trong khi tôi cáu kỉnh đến độ muốn vớ dao bấm
xử ngay nó, nó bình thản chào tôi rồi quay đi. Bây giờ tôi vẫn đang thấy nó
đây. Bạn ơi, tôi muốn nói đến bạn đấy.”
Y nhìn lên Farnleigh.
“Không thể nào,” Farnleigh đưa tay vuốt trán, đột ngột lên tiếng, “không
thể là thật. Quả là ác mộng. Nghiêm túc đấy à? Ông muốn nói…”
“Đúng thế,” người kia bật ngón tay quyết đoán. “Ta đã cùng bàn: Nếu
đổi vai cho nhau thì thích biết bao. Dĩ nhiên, lúc đó chỉ là mộng mơ. Bạn
nói không đổi được đâu, nhưng trông mặt bạn như đang muốn giết tôi để
giành địa vị. Thật tình, tôi nói vậy chứ nào muốn đổi, chỉ bạn là muốn thôi.
Tôi từng kể cho bạn về bản thân. Tôi bảo ‘Nếu bạn gặp cô tớ, bà X hay anh
họ tớ, thằng Y, thì phải nói với họ thế này này…’ Tôi còn ra oai với bạn đủ
điều, mà bây giờ tôi chả muốn nhớ nữa: vì tôi không định biện hộ cho hành
động của mình hồi xưa. Lúc đó cũng như bây giờ, tôi đều cho bạn là tên kẻ
cắp. À, tôi cho bạn xem cả nhật kí. Tôi luôn viết nhật kí, đơn giản vì chẳng
có ai để nói chuyện cùng. Giờ tôi vẫn viết.”
“Nhớ tôi không, Patrick?” Nguyên cáo lại ngẩng lên, với ánh nhìn gần
như kì quái. “Bạn có nhớ cái đêm tàu Titanic bị chìm?”
Bốn bề yên tĩnh.
Khuôn mặt Farnleigh không lộ vẻ giận, mà chỉ bối rối.
“Đã nói rồi,” ngài bảo, “ông là đồ điên.”
“Khi tàu đâm vào băng,” nguyên cáo kể chi tiết, “tôi sẽ kể cụ thể các vị
nghe tôi làm gì. Tôi và Murray già tội nghiệp ở chung buồng, nhưng chỉ
mình tôi trong buồng, còn Murray đang chơi bài ở phòng hút thuốc. Trong
túi áo khoác của Murray có ve rượu brandy. Tôi vớ uống thử, vì ngoài quầy,
đời nào họ chịu bán cho.
“Lúc va chạm, tôi hầu như không cảm thấy gì. Chắc mọi người cũng vậy.
Chỉ rung rất nhẹ, chẳng đủ làm li cocktail trên bàn sánh ra ngoài. Nhưng rồi