Theo đúng giờ hẹn thì máy bay sắp đến. Chung quanh lặng ngắt, tịnh
không có bóng người. Giê-lê-nốp đứng gác cổng, còn tôi và Xích-tam lái
xe qua sân bay đến cái chòi nhỏ xem xét lại các đèn hiệu.
Trong nhà nuôi trẻ, các em đang ngủ say. Ngoài ra còn có ba người đàn
bà, có lẽ là vú em. Khi thấy động, bọn họ tỉnh dậy sợ sệt chào:
— Lạy các quan lớn!
Chúng tôi nhốt họ vào căn hầm tối om. Xích-tam nghiêm nghị nói:
— Ngồi yên! Nếu mở miệng thì chết ngay. Rõ chưa?
Chúng tôi sục vào biệt thự vớ được tên nấu bếp và tên hầu phòng, tống
luôn vào hầm rượu. Xong, trở lại nhà nuôi trẻ đánh thức các em dậy và bỏ
lên ô tô chở ra chòi ở cuối sân bay rồi quay ra chỗ Giê-lê-nốp đứng gác.
Anh lăm lăm khẩu súng tiểu liên trong tay, càu nhàu:
— Muộn thế, hay là có việc gì không hay xảy ra...
Câu nói vừa dứt, tiếng động cơ từ xa vang lại. Các em bé ngồi co ro
quay sát vào nhau thành một cụm nhỏ như đàn gà con. Có em hãy còn ngủ
gà ngủ gật, có em khóc ré lên, nhưng số lớn các em đều im thin thít.
Xích-tam vào chòi bật đèn hiệu. Chiếc máy bay to lớn hạ cánh chạy trên
sân. Đồng chí phi công không tắt máy, nhảy xổ xuống đất nhìn tôi trong
bóng tối:
— Có việc gì không, đồng chí Giê-lê-nốp?
— Không, tôi là Ma-ca-rốp. Giê-lê-nốp đứng gác ngoài cổng kia.
— Chào đồng chí. Tôi là đại úy phi công Lu-nha-kin. Thôi nhanh lên.
Các em đâu cả rồi! Hở, các em đâu?
Xích-tam nói một câu tiếng Đức với tôi rồi chạy vào chòi. Lu-nha-kin
nhìn theo, hỏi:
— Này, thằng Đức nào thế?
— Một người bạn tin cẩn của ta đấy.
Cùng đi với Lu-nha-kin có hai người giúp việc: một hiệu thính viên và
một hoa tiêu.
Tất cả chúng tôi cùng hợp lực mang các em bé lên máy bay. Vội quá
chúng tôi cứ cắp nách hai, ba em một.
Lúc ấy có tiếng súng nổ ngoài cổng. Lu-nha-kin lo lắng hỏi tôi: