quên ở nhà ông chú. Cô ngước nhìn người đàn ông đứng tuổi ngồi cạnh mà
cũng như cô không lúc nào là không nhìn ra ngoài, mặc dù bên bậu cửa sổ
trời vẫn tối mịt. Nghiêng người sang phía ông ta để nghe cho rõ hơn, cô hỏi
khẽ: mấy giờ rồi?
Ông ta chậm rãi cởi cúc áo măng-tô, rút ở túi trong ra một chiếc đồng hồ
quả quýt kiểu cổ.
- Mười một rưỡi – ông ta lịch sự đáp, vừa ngước cặp mắt ti hí nhìn cô gái.
Một nỗi tuyệt vọng và kinh hãi bỗng chẹn ngang lấy cổ họng An-ca.
Đúng giọng nói ấy rồi! Đích thị là giọng nói ấy! Phải, phải, đó chính là cái
giọng từ phòng bên cạnh chõ sang khi cô bị trói ở phố Gra-đô-va. Cô không
thể lầm được: vẫn chính những âm thanh khê đặc mà cô gái nhớ suốt đời.
Đầu óc cô như mụ đi, trong khi cô vẫn nhìn ông ta bằng cái nhìn vô cảm.
Còn ông ta thì làm ra vẻ chẳng có gì đáng để ý. Cô cố hết sức nhưng không
tài nào nhìn rõ mặt ông ta vì lúc này ông ta đang cúi gằm, chiếc mũ lưỡi
trai che quá nửa khuôn mặt.
Đoàn tàu chạy chậm dần trước lúc vào ga. Đây là khu Ô-khô-ta. An-ca sợ
sệt nhìn người đàn ông khủng khiếp kia lần nữa rồi vùng đứng dậy chạy vội
ra cửa.
Ông bạn đường đứng tuổi cúi thấp thêm nữa để khỏi bị cô nhận mặt. Qua
cử chỉ của An-ca, ông ta thừa biết là cô gái đã nhận ra mình. Cuộc chạm
trán bất đắc dĩ lần thứ hai trên chuyến tàu đêm này, tiếp diễn ngay sau ngày
hang ổ của bọn chúng ở Gra-đô-va bị phanh phui và cô gái này tẩu thoát,
buộc lão phải tính toán lại thật chi tiết hết thảy mọi cái, việc đầu tiên và tối
hệ trọng phải làm lúc này là hãy thủ tiêu ngay cái con nỡm tóc vàng kia. Nó
còn hệ trọng hơn cả việc đoạt lại món tiền đã lọt vào tay ả nữa kia.