hỗn hợp do nó có nhiệt độ sôi thấp hơn sulfuric acid. Sau đó hơi nitric acid
được ngưng tụ và thu lại trong các bình ngưng tụ.
Trong Chiến tranh Thế giới I, nguồn cung cấp diêm tiêu Chile đến Đức
hoàn toàn bị cắt đứt do sự phong tỏa của Hải quân Anh. Các hợp chất
nitrate là các hóa chất chiến lược cần thiết để điều chế thuốc nổ, vì vậy
nước Đức cần phải tìm một nguồn cung cấp khác.
Trong khi các hợp chất nitrate không dồi dào, thì hai nguyên tử cấu thành
nên chúng là nitơ và oxy lại sẵn có trong tự nhiên với số lượng lớn. Bầu khí
quyển được tạo thành từ khoảng 20% oxy và 80% nitơ. Oxy (O
₂) có hoạt
tính hóa học cao, dễ dàng kết hợp với rất nhiều các nguyên tố khác, trong
khi đó phân tử nitơ (N
₂) lại là một chất khí khá trơ. Vào những năm đầu thế
kỷ 20, các phương pháp “cố định” nitơ - nghĩa là lấy nitơ từ không khí
bằng các phản ứng với các nguyên tố khác - cũng đã được biết đến, nhưng
chỉ ở mức độ sơ khai.
Trong một thời gian dài, nhà hóa học người Đức, Fritz Haber, đã nghiên
cứu quá trình kết hợp nitơ trong không khí với hydro để tạo thành
ammonia.
Haber đã giải quyết được vấn đề sử dụng khí nitơ trơ trong không khí để
tạo thành một lượng ammonia tối đa với chi phí tối thiểu bằng cách áp dụng
điều kiện phản ứng tại áp suất cao, với nhiệt độ phản ứng trong khoảng 400
đến 500°C, và nhanh chóng tách ammonia ra khỏi hỗn hợp phản ứng ngay
khi nó được tạo thành. Phần lớn công việc của Haber liên quan đến việc tìm
ra một chất xúc tác nhằm tăng tốc độ của phản ứng xảy ra đặc biệt chậm
này. Các nghiên cứu của ông đặt trọng tâm vào việc tạo ra ammonia để
cung cấp cho công nghiệp phân bón. Vào thời kỳ này, ⅔ nhu cầu phân bón