cao; đây là một hỗn hợp khí dễ cháy với thành phần khoảng 50% hydro,
35% methane, một lượng nhỏ khí carbon monoxide, ethylene, acetylene và
một vài hợp chất hữu cơ khác. Từ các trạm phân phối khí, khí than được
dẫn trong đường ống đến các căn hộ, nhà máy và hệ thống chiếu sáng
đường phố. Khi nhu cầu khí than tăng lên cũng là lúc nảy sinh vấn đề xử lý
hắc ín, phế phẩm dường như không có giá trị gì của quá trình khí hóa than.
Hắc ín là một chất lỏng đặc quánh, có màu đen và mùi hắc, về sau đã
được chứng tỏ là một nguồn nguyên liệu quý giá đáng kinh ngạc, cung cấp
nhiều phân tử có cấu trúc vòng thơm quan trọng. Mãi đến khi các mỏ khí
thiên nhiên khổng lồ có thành phần chính là methane được phát hiện vào
đầu thế kỷ 20, thì quy trình khí hóa than và các sản phẩm liên quan, như
hắc ín, mới bắt đầu suy giảm. Carbolic acid thô, được sử dụng lần đầu bởi
Lister, là một hỗn hợp được chưng cất từ hắc ín trong khoảng nhiệt độ từ
170°C đến 230°C. Đây là một hỗn hợp sậm màu, có mùi rất mạnh, có thể
gây bỏng da. Lister cuối cùng cũng phân tách được thành phần chính của
carbolic acid, phenol, dưới dạng các tinh thể màu trắng tinh khiết.
Phenol là một phân tử vòng thơm đon giản, bao gồm một vòng benzene
gắn với một nhóm OH.
Phenol ít tan trong nước và tan tốt trong dầu. Tận dụng tính tan của
phenol, Lister đã phát triển một loại thuốc được gọi là “thuốc đắp kín
carbolic”, một hỗn hợp của phenol, dầu hạt lanh và bột phấn. Loại thuốc
dạng bột nhão này (trải lên các tấm thiếc mỏng) được đắp kín lên vết mổ và
đóng vai trò như lớp vảy bảo vệ, ngăn vi khuẩn xâm nhập vào vết thương.
Một dung dịch ít đậm đặc hơn của phenol trong nước, thông thường khoảng
một phần phenol trong 20-24 phần nước, được dùng làm dung dịch sát
trùng các phần da xung quanh vết thương, rửa các dụng cụ phẫu thuật và