thuế hải quan tại rất nhiều điểm dừng suốt dọc con đường lữ hành của lái
buôn. Sau khi Alexander Đại đế qua đời vào năm 323 TCN, quan chức ở
Syria và Ai Cập vẫn tiếp tục thu thuế muối, là loại thuế ban đầu được chính
quyền Hy Lạp triển khai thực hiện.
Trong suốt những thế kỷ này, việc thu thuế cần đến những người thu
thuế, và rất nhiều trong số họ đã trở nên vô cùng giàu có thông qua việc
tăng thuế suất, thêm vào những khoản phụ thu và bán quyền miễn thuế. La
Mã cũng không phải là ngoại lệ. Ban đầu, những ruộng muối Ostia tại châu
thổ sông Tiber do chính quyền La Mã quản lý, theo cách muối có thể được
cung cấp với giá phải chăng cho tất cả mọi người. Nhưng sự hào phóng này
không tồn tại được lâu. Những khoản thu từ việc đánh thuế muối là những
cám dỗ vật chất quá lớn, và thuế muối được áp dụng. Khi Đế quốc La Mã
mở rộng, sự độc quyền làm muối và thuế muối cũng mở rộng theo. Những
người thu thuế, thường là những nhân tố độc lập do thống đốc của mỗi tỉnh
trong La Mã quản lý, đánh thuế vào bất cứ chỗ nào có thể. Đối với người
dân sống xa vùng sản xuất muối, giá thành cao của muối không chỉ phản
ánh chi phí vận chuyển mà còn bao gồm các loại thuế khác nhau đánh lên
mặt hàng này trên suốt con đường vận chuyển.
Việc đánh thuế muối tại châu Âu vẫn tiếp tục trong suốt thời kỳ Trung
cổ, thường là dưới dạng thuế vận chuyển đánh lên các đoàn xe hoặc xà lan
chở muối từ mỏ muối hoặc các ruộng muôi ven biển. Đỉnh điểm của việc
đánh thuế này là loại thuế muối khét tiếng, vô cùng nặng nề và gây căm
phẫn tại Pháp, với tên gọi gabelle. Có khá nhiều ghi chép về sự ra đời của
gabelle. Một số nguồn kể rằng Charles của xứ Anjou tại Provence đã đặt ra
loại thuế này vào năm 1259, các tài liệu khác cho rằng gabelle khởi nguồn
như một loại thuế chung áp dụng cho các mặt hàng như bột mì, rượu vang
và muối từ cuối thế kỷ 13 nhằm mục đích duy trì quân đội. Cho dù có
nguồn gốc thế nào đi chăng nữa, đến thế kỷ 15, gabelle trở thành một trong
những nguồn thu thuế chủ yếu của nước Pháp, và tên gọi này chí dành
riêng cho thuế đánh lên muối ăn.