mạng sống của nhiều tín đồ Tin Lành, những người không chấp nhận sự
chữa trị bắt nguồn từ Thiên Chúa giáo. Việc quinine đã chữa được căn bệnh
được biết là những con ớn lạnh chính là bằng chứng cho thấy dịch sốt ác
liệt hoành hành tại châu Âu trong nhiều thế kỷ thực chất chính là bệnh sốt
rét.
Trong ba thế kỷ tiếp theo, cùng với sốt rét, các bệnh như chứng khó tiêu,
sốt, rụng tóc, ung thư, và nhiều căn bệnh khác đều được điều trị bằng vỏ
cây cinchona. Thời điểm con người biết về loại cây cho vỏ kỳ diệu như vậy
là vào năm 1735, khi nhà thực vật học người Pháp Joseph de Jussieu trong
chuyến thám hiểm tầng cao hơn của vùng rừng mưa nhiệt đới Nam Mỹ, đã
phát hiện ra rằng nguồn vỏ đắng đáng quý này là từ một vài giống của loài
cây lá rộng, có thể phát triển cao đến gần hai mươi mét. Loài cây này thuộc
họ Rubiaceae, cùng họ với cây cà phê. Nhu cầu về loại vỏ cây này luôn rất
cao, và việc thu gom nó đã trở thành một ngành nghề chính. Mặc dù có thể
thu được một lượng vỏ nhất định mà không làm chết cây, nhưng những
khoản lợi kếch xù sẽ được tạo ra khi đốn hạ cây và bóc lấy toàn bộ vỏ. Đến
cuối thế kỷ 18, mỗi năm có khoảng 25.000 cây quina bị đốn hạ.
Với giá thành vỏ cây cinchona ngày càng tăng cao và nguồn cây có thể
trở nên khan hiếm, việc phân lập, xác định và sản xuất phân tử chống sốt
rét đã trở thành một mục tiêu quan trọng. Quinine được cho là được phân
lập lần đầu, dù chỉ dưới dạng không tinh khiết, vào năm 1792. Các nghiên
cứu toàn diện nhằm mục đính xác định các hợp chất có trong vỏ cây đã bắt
đầu được triển khai vào khoảng năm 1810, và đến tận năm 1820, hai nhà
khoa học là Joseph Pelletier và Joseph Caventou mới có thể trích ly và tinh
chế được quinine. Viện Khoa học Paris đã trao số tiền thưởng lên đến
10.000 franc cho hai nhà hóa học người Pháp vì công trình quý giá của họ.
Trong số gần ba mươi alkaloid tìm thấy trong vỏ cinchona, quinine
nhanh chóng được phát hiện là thành phần hoạt tính. Cấu trúc của phân tử
này chỉ được xác định hoàn toàn vào thế kỷ 20, vì vậy những cố gắng trước
thời gian này trong việc tổng hợp quinine gần như không có cơ hội thành
công. Một trong số đó là nỗ lực của nhà hóa học trẻ người Anh William