Cái chết của Irène Joliot-Curie lại trớ trêu gấp bội vì nguồn phóng xạ nhân
tạo giá rẻ mà cô tạo ra đã trở thành công cụ y tế quan trọng. Khi nuốt một
lượng nhỏ, “chất đánh dấu” phóng xạ có thể làm sáng các cơ quan và mô
mềm hiệu quả như tia X đối với xương. Hầu như tất cả bệnh viện trên thế
giới đều sử dụng chất đánh dấu, và một ngành y học mới – chẩn đoán hình
ảnh – phụ thuộc vào nó. Thật ngạc nhiên khi biết rằng chất đánh dấu vốn
được một sinh viên (là bạn của Irène) bày ra nhằm trả đũa bà chủ nhà trọ của
mình.
Năm 1910, ngay trước khi Marie Curie nhận giải Nobel về phóng xạ lần thứ
hai, chàng trai trẻ György Hevesy đã đến Anh để nghiên cứu về phóng xạ.
Ernest Rutherford – giám đốc phòng thí nghiệm của Đại học Manchester mà
anh theo học – lập tức giao cho Hevesy một nhiệm vụ khó khăn là tách các
nguyên tử phóng xạ khỏi các nguyên tử không có tính phóng xạ bên trong
các khối chì. Hóa ra nó chẳng khó, mà chỉ là một nhiệm vụ bất khả thi.
Rutherford cho rằng các nguyên tử phóng xạ mà ông gọi là radi-D là một
chất độc đáo. Radi-D thực ra là đồng vị chì có tính phóng xạ, nên việc tách
rời nó khỏi các nguyên tử chì không có tính phóng xạ là bất khả về mặt hóa
học. Không hề hay biết điều này, Hevesy đã lãng phí hai năm cho việc ấy
trước khi bỏ cuộc.
Chàng quý tộc Hevesy hói đầu, má xệ, có ria mép đến từ Hungary còn phải
đối mặt với rắc rối ở chỗ trọ. Hevesy quen với món ăn Hungary, chứ không
phải đồ ăn của Anh tại nhà trọ. Nhận thấy sự lặp lại trong các bữa ăn ở đó,
Hevesy ngờ rằng thịt “tươi” hằng ngày của chủ nhà cũng giống như cách mà
các bếp ăn ở trường trung học tái chế hamburger hôm thứ hai thành thịt bò
sốt ớt ngày thứ năm. Bà chủ nhà phủ nhận điều này, nên Hevesy quyết tìm
cho ra chứng cứ.
Anh đã đạt được một bước đột phá ngoạn mục trong phòng thí nghiệm vào
khoảng thời gian đó. Anh vẫn không thể tách được radi-D nhưng nhận ra
ứng dụng của chất này. Hevesy suy nghĩ về khả năng tiêm một lượng nhỏ
chì hòa tan vào một sinh vật và lần theo dấu vết của lượng chì ấy. Sinh vật