nên sàng lọc các mẫu luteti mới được phát hiện) hay tạm thời phân nó vào
nhóm riêng là kim loại chuyển tiếp.
Tương truyền, Niels Bohr đã một mình trong văn phòng chứng minh như
đinh đóng cột rằng nguyên tố thứ 72 không thuộc nhóm đất hiếm như luteti.
Ta cần nhớ rằng vai trò của các electron trong hóa học bấy giờ chưa được
biết đến rộng rãi. Bohr được cho là đã dùng các tính toán lạ thường của cơ
học lượng tử để chứng minh rằng các nguyên tố chỉ có thể chứa ngần ấy
electron ở các lớp bên trong. Lớp f của luteti không thể chứa thêm electron
được nữa; nên ông cho rằng nguyên tố tiếp theo không còn lựa chọn nào
khác ngoài chứa electron ở lớp d và hoạt động như kim loại chuyển tiếp. Do
đó, Bohr đã cử Hevesy và nhà vật lý Dirk Coster xem xét kỹ lưỡng các mẫu
ziriconi (nguyên tố thứ 40, nằm ngay trên nguyên tố thứ 72) để xem tính
chất hóa học của hai nguyên tố này có tương tự nhau hay không. Đây có lẽ
là khám phá tốn ít công sức nhất trong lịch sử bảng tuần hoàn: Hevesy và
Coster tìm thấy nguyên tố thứ 72 ngay trong lần thử nghiệm đầu tiên. Họ đặt
tên nó là hafni (xuất phát từ Hafnia – tên của Copenhagen theo tiếng Latin).
Khi đó, cơ học lượng tử đã chinh phục nhiều nhà vật lý, nhưng nó vẫn bị
giới hóa học ghẻ lạnh và cho là trái với thường lý. Không phải vì nó đáng
chán mà vì nó không thực dụng: cách đếm electron ngộ nghĩnh đó dường
như chẳng liên quan gì đến hóa học thực sự. Tuy nhiên, dự đoán của Bohr về
hafni – được thực hiện mà không cần đặt chân vào phòng thí nghiệm – đã
buộc các nhà hóa học phải nghĩ lại. Thật trùng hợp, Hevesy và Coster phát
hiện ra nguyên tố này ngay trước khi Bohr nhận giải Nobel Vật lý năm
1922. Họ đánh điện tới Stockholm cho ông, và Bohr công bố phát hiện này
ngay trong bài phát biểu trước khi nhận giải. Điều này khiến cơ học lượng tử
được coi là một hình thái tiến hóa mới của khoa học, vì nó đào sâu vào cấu
trúc nguyên tử hơn hóa học. Tin tức nhanh chóng lan đi. Vốn xem ông là
con người thần bí trong khoa học, các đồng nghiệp nhanh chóng coi Bohr
như đấng tiên tri.