kim lạ. Telu (có liên hệ với truyền thuyết về ma cà rồng – được phân lập lần
đầu tiên ở Transylvania năm 1782) là nguyên tố duy nhất liên kết với vàng.
Nó kết hợp với vàng để tạo ra một số khoáng chất có tên gọi khá ghê răng và
công thức hóa học cũng không kém phần khó nhằn: krennerit, petzit,
sylvanit và calaverit. Thay vì tỷ lệ đẹp như H
2
O và CO
2
, krennerit có công
thức hóa học là (Au
0,8
, Ag
0,2
)Te
2
. Những hợp kim của telu này có màu sắc
khác nhau, trong đó calaverit có ánh vàng.
Trên thực tế, ánh sáng của nó giống của đồng thau hoặc pyrit sắt hơn là màu
vàng kim, nhưng vẫn đủ giống để lừa bạn nếu đã dãi nắng cả ngày. Hãy
tưởng tượng những chàng trai 18 tuổi bẩn thỉu chở các thỏi calaverit đến cho
người thẩm định trong Mỏ Hannan chỉ để nghe họ bác bỏ chúng như một
thứ vô dụng, được các nhà khoáng vật học gọi là “bagoshite”
1
. Cũng cần nhớ
rằng một số hợp chất của telu (không phải calaverit) có mùi hăng như tỏi
nhưng đậm hơn hàng ngàn lần, một thứ mùi rất khó loại bỏ. Tốt hơn là bán
và chôn xuống đường ngay trước khi nó ám mùi vào người, rồi quay lại mà
đào vàng thật.
1
. Nghĩa là “Đồng phân hôi”, chơi chữ theo hậu tố “-it” của các hợp kim.
(BTV)
Dòng người vẫn lũ lượt đổ về Mỏ Hannan, còn thức ăn và nước uống lại
chẳng rẻ đi chút nào. Có lúc khan hiếm nguồn cung vật tư căng thẳng tới
mức châm ngòi cho một cuộc bạo loạn toàn diện. Đúng vào giây phút tuyệt
vọng, những tin đồn về đống đá màu vàng chứa telu mà họ vẫn đào lên đổ đi
lại lan ra. Sau nhiều năm nghiên cứu calaverit, các nhà khoáng vật học đã
hiểu rõ những thuộc tính của nó – dù thợ khai mỏ trực tiếp đào lên không hề
biết. Đầu tiên, nó bị phân hủy ở nhiệt độ thấp, khiến việc tách vàng ra dễ
dàng hơn. Calaverit lần đầu tiên được tìm thấy ở Colorado vào những năm
1860.* Các nhà sử học cho rằng có vẻ những người cắm trại đã nhận ra các
tảng đá mà họ dùng để quây quanh bếp lửa đang rỉ ra vàng. Chẳng mấy
chốc, những câu chuyện như thế đã xuất hiện quanh Mỏ Hannan.