trúng độc tali (hay selen) mà vẫn có được một trí tuệ sắc bén như vậy khi về
già? Crookes thực sự đã rút khỏi giới thông linh sau năm 1874, tái cống hiến
cho khoa học và cho ra đời những khám phá lớn. Ông là người đầu tiên đề
xuất sự tồn tại của đồng vị. Ông cũng chế tạo một thiết bị mới quan trọng và
xác nhận sự hiện diện của heli trong đá – dấu hiệu đầu tiên cho thấy sự tồn
tại của nó trên Trái Đất
1
. Năm 1897, vị hiệp sĩ mới được tấn phong William
Crookes chuyên tâm vào phóng xạ. Ông thậm chí còn phát hiện ra (dù không
hề hay biết) nguyên tố protactini năm 1900.
1
. Các nhà khoa học lần đầu tiên biết tới sự tồn tại của heli khi quan sát
quang phổ của Mặt Trời vào năm 1868. Ngày 26/3/1895, nhà hóa học
Scotland William Ramsay lần đầu tiên phân lập được heli trên Trái Đất. Nó
được Norman Lockyer và William Crookes xác nhận là heli (BTV).
Có lẽ cách lý giải tốt nhất việc Crookes sa lầy vào Thuyết thông linh là tâm
lý đau đớn khi mất em trai. Ông đã sa vào “khoa học ảo tưởng” trước cả khi
thuật ngữ này ra đời.
Để hiểu được thuật ngữ này, tốt nhất ta cần xóa bỏ mọi quan niệm sai lầm về
từ “ảo tưởng”, và nói rõ những gì không phải là khoa học ảo tưởng. Nó
không mang tính lừa đảo vì những tín đồ của khoa học ảo tưởng tin rằng họ
đúng, chỉ là người khác không hiểu được. Nó không phải ngụy khoa học,
những lĩnh vực giả danh khoa học nhưng từ chối dùng các phương pháp
khoa học. Nó cũng không phải là khoa học đã được chính trị hóa, khi mọi
người thề trung thành với một khoa học sai lầm vì các mối đe dọa hoặc ý
thức hệ lệch lạc. Cuối cùng, nó không phải là sự điên rồ lâm sàng hay niềm
tin đơn thuần. Nó là một sự điên rồ đặc biệt, một ảo tưởng tỉ mỉ và khoa học.
Các nhà “khoa học ảo tưởng” chọn một hiện tượng ngoài lề, không liên
quan, lôi cuốn họ vì lý do gì đó và sử dụng tất cả sự nhạy bén khoa học để
chứng minh sự tồn tại của nó. Nhưng cách này đã sai ngay từ đầu: nó chỉ
phục vụ nhu cầu cảm xúc cá nhân để thỏa mãn đức tin. Bản thân Thuyết
thông linh không phải là khoa học ảo tưởng nhưng chính Crookes đã biến nó