thành khi các sinh vật biển nhỏ chết đi, lớp vỏ giàu canxi của chúng chìm
xuống và chồng lớp lên nhau dưới đáy đại dương. Giống như xương, những
vỏ này có lỗ nhưng tính chất hóa học của canxi giúp tăng độ bền của chúng.
Hầu hết các loại nước tự nhiên (như nước mưa) có tính axit nhẹ, còn các
khoáng chất chứa canxi có tính bazơ nhẹ. Khi nước thấm qua lỗ trên vỏ,
phản ứng trung hòa xảy ra như núi lửa hóa học cỡ nhỏ của trẻ cấp 1, giải
phóng lượng nhỏ cacbon dioxit và làm mềm đá. Ở quy mô địa chất lớn, các
phản ứng giữa nước mưa và canxi tạo thành những khoang lớn mà chúng ta
gọi là hang động.
Ngoài giải phẫu và nghệ thuật, các bong bóng canxi còn định hình nền kinh
tế và các đế chế. Nhiều vịnh nhỏ giàu canxi dọc bờ biển phía nam nước Anh
không có nguồn gốc tự nhiên mà hình thành từ các mỏ đá vôi vào khoảng
năm 55 TCN, khi người La Mã yêu thích đá vôi đặt chân đến đây. Các trinh
sát của Julius Caesar đã phát hiện ra một tảng đá vôi màu kem hấp dẫn gần
Beer (nước Anh) ngày nay, và bắt đầu đem nó về La Mã để làm vật liệu
trang trí mặt tiền của các công trình. Đá vôi từ Beer sau đó được dùng để
xây dựng Cung điện Buckingham, Tháp London và Tu viện Westminster, để
lại những hang động lớn ven biển. Đến năm 1800, một số cậu trai địa
phương có thời thơ ấu gắn liền với trò đuổi bắt và chèo thuyền trong mê
cung hang động này đã quyết định sống lại thời thơ ấu và trở thành kẻ buôn
lậu; tận dụng những vòm canxi này làm nơi giấu rượu Brandy, trà, thuốc lá
và lụa của Pháp từ Normandie bằng thuyền nhỏ.
Những kẻ buôn lậu (hoặc “những người theo chủ nghĩa thương mại tự do”
như họ tự gọi) mọc lên như nấm sau mưa vì những khoản thuế đáng ghét mà
chính phủ Anh đánh vào hàng hóa Pháp nhằm trêu tức Napoléon. Bong
bóng nhu cầu là điều không thể tránh khỏi khi các mặt hàng bị đánh thuế trở
nên khan hiếm. Ngoài ra, sự bất lực của lực lượng bảo vệ bờ biển Hoàng gia
Anh trong việc chống buôn lậu đã thuyết phục Quốc hội Anh đưa ra các đạo
luật để tự do hóa thương mại trong thập niên 1840, mang lại thương mại tự