nguyên rồi tới những sườn dốc trắng xóa tuyết phủ của dãy Ural để đến một
trường đại học danh giá tại Moscow. Nhưng ngôi trường ấy đã từ chối
Dmitri vì cậu không phải người địa phương. Không nản lòng, bà lại đưa con
lên ngựa và đi thêm 600 km để đến ngôi trường cũ của chồng ở St.
Petersburg. Ngay sau khi thấy con trai nhập học, bà đã từ giã cõi đời.
Mendeleev đã chứng tỏ mình là một học sinh xuất sắc. Sau khi tốt nghiệp,
ông nghiên cứu tại Paris và Heidelberg và được Bunsen lừng danh hướng
dẫn một thời gian (hai người có mẫu thuẫn cá nhân, một phần vì tính khí thất
thường của Mendeleev và phần khác là vì phòng thí nghiệm của Bunsen nổi
tiếng là ồn ào và độc hại). Mendeleev trở lại St. Petersburg với tư cách là
giáo sư vào những năm 1860 và bắt đầu suy nghĩ về bản chất các nguyên tố,
mà thành quả đỉnh cao là bảng tuần hoàn nổi tiếng năm 1869 của ông.
Nhiều người đã nghiên cứu cách sắp xếp các nguyên tố (một số thậm chí đã
giải quyết được nhưng lại không trọn vẹn) với cách tiếp cận tương tự
Mendeleev. Nhà hóa học người Anh John Newlands tầm 30 tuổi đã trình bày
bảng tạm thời của mình trước Hội hóa học London vào năm 1865. Tuy
nhiên, ông đã bị chính cách ví von sai lầm của mình làm hại. Vào thời điểm
đó, vì không ai biết về khí trơ (từ heli đến radon) nên các hàng trên cùng
trong bảng tuần hoàn của ông chỉ có bảy ô. Newlands hóm hỉnh so sánh bảy
ô ấy với các nốt nhạc đồ-rê-mi-fa-son-la-si-đố. Thật không may, Hội hóa
học London không phải là khán giả hóm hỉnh và họ đã chế giễu công trình
“trẻ con” của Newlands.
Đối thủ nặng ký hơn của Mendeleev là Julius Lothar Meyer, một nhà hóa
học người Đức với bộ râu trắng xồm xoàm và mái tóc đen bóng mượt.
Meyer cũng từng làm việc dưới quyền Bunsen tại Heidelberg và có uy tín
chuyên môn cao. Ông đã phát hiện ra rằng các tế bào hồng cầu đính oxy vào
huyết sắc tố để vận chuyển. Meyer công bố bảng tuần hoàn của mình gần
như cùng lúc với Mendeleev, và họ đã cùng nhận Huân chương Davy vì
đồng phát hiện ra “định luật tuần hoàn”. (Đây là giải thưởng uy tín của nước
Anh trước khi có giải Nobel, nhưng Newlands đã không được cân nhắc trao