amoniac, Haber không thể nhanh chóng vứt bỏ các dự án khác của mình. Bộ
phận này sớm được gọi là “văn phòng của Haber”, và quân đội còn thăng
hàm cho Haber – một người Do Thái 46 tuổi cải đạo sang Công giáo Kháng
cách Luther (để thuận đường làm quan) – làm đại tá, khiến ông ta tự hào như
một đứa trẻ.
Gia đình ông thì không mấy hài lòng. Quan điểm “thượng đẳng” của Haber
khiến các mối quan hệ cá nhân của ông trở nên lạnh nhạt, đặc biệt là với
người vợ đã cứu rỗi linh hồn ông: bà Clara Immerwahr. Bà cũng là một
thiên tài, người phụ nữ đầu tiên lấy được bằng tiến sĩ từ trường đại học danh
tiếng Breslau (nay là Wrocław) ở quê hương Haber. Nhưng không như đồng
nghiệp cùng thời là Marie Curie, Clara chưa từng thành công trong sự
nghiệp, bởi bà đã kết hôn với Haber chứ không phải một người rộng lượng
như Pierre Curie. Thoạt nhìn, cuộc hôn nhân này không phải là lựa chọn tồi
cho một người đam mê khoa học, nhưng Haber – dù có tài năng hóa học
sáng chói – lại chẳng phải là một người tốt. Như một nhà sử học ghi lại,
Clara “không bao giờ thoát khỏi tạp dề”, và bà từng tâm sự với một người
bạn về chuyện “Fritz luôn coi mình là nhất, chà đạp những người hiền lành
hơn trong nhà”. Bà hỗ trợ Haber bằng cách dịch các bản thảo sang tiếng Anh
và hỗ trợ về kỹ thuật cho các dự án nitơ, nhưng từ chối giúp đỡ trong nghiên
cứu dùng brom làm hơi cay.
Haber chẳng mấy bận tâm. Hàng chục nhà hóa học trẻ khác luôn tình
nguyện giúp ông, vì lúc đó người Đức đang tụt lại sau người Pháp mà họ
căm ghét trong chiến tranh hóa học. Và đến đầu năm 1915, người Đức đã có
câu trả lời cho các loại hơi cay của Pháp. Tuy nhiên, Đức lại thử nghiệm lựu
đạn mới của họ với quân đội Anh (vốn không có hơi cay). May mắn thay,
cũng như cuộc tấn công bằng hơi cay đầu tiên của Pháp, gió đã phân tán khí
và những người lính Anh đang chán nản trong con hào gần đó không hề biết
mình đã bị tấn công.
Không nản lòng, quân đội Đức đầu tư nhiều nguồn lực hơn nữa cho chiến
tranh hóa học, nhưng vấn đề là giới chức chính trị không muốn công khai