thập lam) và chất gây phồng rộp ác mộng gelbkreuz (chữ thập vàng) hay còn
được biết với cái tên là “khí mù tạt”. Không thỏa mãn với việc chỉ đóng góp
về khoa học, Haber còn nhiệt tình chỉ huy cuộc tấn công khí độc đầu tiên
thành công trong lịch sử, khiến 5.000 lính Pháp đang bối rối bị bỏng trong
một con hào đầy bùn gần Ypres. Lúc rảnh rỗi, Haber cũng đã đưa ra một
định luật sinh học kỳ quặc để định lượng mối quan hệ giữa nồng độ khí, thời
gian tiếp xúc và tỷ lệ tử vong: quy tắc Haber (vốn cần đến một lượng lớn dữ
liệu chết chóc).
Kinh hoàng trước các dự án khí độc, Clara đối đầu với Fritz và yêu cầu ông
chấm dứt chúng. Như thường lệ, Fritz hoàn toàn bỏ ngoài tai. Dù đã bật
khóc khi các đồng nghiệp bỏ mạng trong một tai nạn tại bộ phận nghiên cứu
thuộc văn phòng Haber, ông ta vẫn mở tiệc ăn mừng vũ khí mới của mình
sau khi trở về từ Ypres. Tồi tệ hơn, Clara phát hiện ra chồng mình chỉ về nhà
trong đêm vì muốn nghỉ chân, rồi sẽ lên đường ngay để chỉ đạo những cuộc
tấn công vào mặt trận phía đông. Họ cãi nhau dữ dội. Tối đó, Clara bước ra
vườn với khẩu súng lục của Fritz và tự bắn vào ngực. Dù buồn bã nhưng
Fritz vẫn không để điều này ảnh hưởng đến lịch trình của mình. Sáng hôm
sau, ông ta vẫn rời đi như dự định mà không buồn ở lại để lo liệu tang lễ cho
vợ.
Tuy có lợi thế không gì sánh được là Haber nhưng rốt cuộc Đức vẫn thất bại
trong Thế Chiến I và bị toàn cầu lên án là một quốc gia vô lại. Phản ứng của
quốc tế với chính Haber còn phức tạp hơn. Năm 1919, giải Nobel Hóa học
1918 (bị hoãn do chiến tranh) được trao cho Haber nhờ quy trình sản xuất
amoniac từ nitơ khi mà khói bụi chiến tranh vẫn còn vần vũ, mặc dù loại
phân bón này không thể cứu hàng ngàn người Đức thoát khỏi chết đói trong
chiến tranh. Năm 1920, ông bị kết án tội phạm chiến tranh quốc tế vì đã phát
động chiến tranh hóa học gây thương tích cho hàng trăm ngàn người và gieo
rắc kinh hoàng cho hàng triệu người khác. Những gì mà Haber đã để lại thực
sự rất mâu thuẫn, công to mà tội cũng lớn.