lượng nhân viên xuống còn một nửa.
Quan hệ hợp tác này mang lại lợi ích rõ rệt đối với thành phố. Số
nhân viên hội đồng thành phố giảm từ 23.500 người xuống còn
19.800 người, trong khi chất lượng dịch vụ tăng lên nhanh chóng;
75% các chỉ số đánh giá hiệu quả của hội đồng đã thoát khỏi và vượt
xa vị trí chót bảng. Hơn thế nữa, LCC tuyên bố giảm 3% thuế địa
phương... Hội đồng kỳ vọng rằng các lợi ích này sẽ tiếp tục được phát
huy theo thời gian.
Mặc dù hầu hết các liên minh hợp tác không được tổ chức dưới
dạng công ty liên doanh, song tất cả đều phụ thuộc vào tính hiệu quả
của các đội liên doanh. Mặc dù việc hợp tác có thể giúp doanh nghiệp
chuẩn hóa công nghệ trong giai đoạn 2 của trưởng thành kiến trúc
(như trường hợp LCC), nhưng các liên minh hợp tác sẽ đặc biệt hữu
ích đối với doanh nghiệp trong giai đoạn 3 (Tối ưu hóa lõi). Đây là
giai đoạn nhà cung cấp có thể cung cấp chuyên môn về IT, thiết kế
quy trình kinh doanh và hỗ trợ quản lý dự án, giúp doanh nghiệp
chuyển tiếp sang các quy trình kinh doanh được chuẩn hóa và tích
hợp cao hơn. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp bước sang giai đoạn 4
(Đơn thể doanh nghiệp) và phụ thuộc nhiều hơn vào các quy trình
bên ngoài, quan hệ hợp tác có thể chuyển sang quan hệ giao dịch.
Quan hệ giao dịch
Quan hệ giao dịch – có khi gọi là “out-tasking” (đưa việc ra ngoài)
– thuê ngoài các dịch vụ cụ thể như xử lý nợ phải trả, báo cáo chi phí,
cung cấp máy tính, sao chép, hồi phục sau thảm họa. Giống như quan
hệ đối tác chiến lược, quan hệ giao dịch gán cho nhà cung cấp các
trách nhiệm rõ ràng khi vận hành những quy trình được thuê ngoài,
nhưng chúng là các mối quan hệ thông thường và hẹp hơn. Quan hệ
giao dịch không chỉ thuê ngoài quy trình kinh doanh và hỗ trợ IT mà
còn làm chủ phần mềm và thiết kế quy trình. Quan hệ giao dịch phù
hợp với các hoạt động được các nguyên tắc kinh doanh chỉ dẫn rõ
ràng – chúng khá phổ biến trong nhiều tổ chức.
Lợi nhuận và rủi ro của quan hệ giao dịch
Theo thống kê, quan hệ giao dịch nhận được nhiều sự hài lòng
162