lớn đã “ngốn” hơn 15% ngân sách IT năm 2005 để tuân thủ các quy
định của Sarbanes-Oxley. Khi chia sẻ con số này với các CIO, Gary
Beach – chủ báo CIO Magazine nhận được rất nhiều sự tán đồng. Sau
đó, một CIO nói với ông: “Tôi đã thực hiện nhiều cuộc tiếp xúc bán
hàng song chưa bao giờ nghe thấy nhân viên kinh doanh nào lại nói
với khách hàng tiềm năng rằng anh nên chọn chúng tôi vì chúng tôi
tuân thủ quy định tốt hơn đối thủ.”
Việc tuân theo quy định luôn gây ra các chi phí gián tiếp nhưng
hầu như mỗi năm đều có các quy định mới. Nền tảng vận hành sẽ làm
giảm đáng kể chi phí biên hạn để đáp ứng quy định kế tiếp bằng cách
tạo ra một khả năng truy cập dữ liệu và chuẩn đo có thể sử dụng lại
được. Doanh nghiệp của bạn tốn bao nhiêu phần trăm ngân sách IT
để chạy theo các yêu cầu quy định mới (thường được gọi là “đầu tư
bắt buộc”)? Nếu tỷ lệ này không giảm theo thời gian, và đặc biệt nếu
nó gần tới 15%, hãy hành động ngay.
Tính linh hoạt trong kinh doanh yếu và các đề xuất tăng
trưởng không sinh lời
Để phát triển các khả năng mới đòi hỏi nhiều thời gian. Do đó,
khi một đề xuất tăng trưởng yêu cầu doanh nghiệp phải phát triển các
khả năng mới, nó thường chậm sinh lãi. Chẳng hạn, việc sáp nhập và
thâu tóm – như trường hợp của Time Warner - AOL hay Chase
Manhattan - JPMorgan đều chậm mang lại hiệu quả kinh tế như
mong muốn vì chúng đều không thể tận dụng được nền tảng vận
hành hiện tại. Tương tự, các đề xuất về thị trường mới như sự xâm
nhập của AT&T vào lĩnh vực truyền hình hay các nỗ lực đi đầu của
GM với OnStar
, thường làm tăng doanh thu hơn là tăng lợi nhuận.
Theo nghiên cứu của chúng tôi, những doanh nghiệp có tỷ lệ các
quy trình kinh doanh lõi được số hóa cao sẽ linh hoạt hơn. Ngược lại,
các doanh nghiệp chưa xây dựng và tận dụng các khả năng được số
hóa sẽ thất bại vì họ phải xây dựng các khả năng mới cho từng đề xuất
mới. Vậy các đề xuất chiến lược mới của doanh nghiệp cải thiện các
khả năng hiện có hay không? Một chuẩn đo hiệu quả về tính linh hoạt
là tỷ lệ doanh thu của doanh nghiệp từ các sản phẩm mới được tung
ra trong ba năm gần đây.
Ở Chương 1, chúng tôi đã đề cập đến tỷ lệ này trong các doanh
nghiệp tham gia nghiên cứu, tỷ lệ doanh số từ những sản phẩm mới
193