giữa tình cảm tôn giáo và tình cảm gia đình. Đó là những nông dân nghèo
khó chỉ có vài bộ quần áo, một ít gạo, một manh chiếu, một tấm chăn mỏng
để ngủ. Họ phải đi nhanh (cho kịp thời hạn 300 ngày được lựa chọn ra đi
theo quy định của Hiệp nghị Geneva), không có xe ôtô, không tàu hỏa. Thật
khủng khiếp”.
Tín còn kể lại: “Đối với nhiều người, điều quan trọng nhất là giữ cây
thập ác. Nhiều người quỳ bên ngôi nhà của họ. Một số sau khi lên đường
được 200 m về hướng Nam, quay lại ôm chặt gốc cây trong vườn ngồi khóc.
Phụ nữ địu con trên lưng. Thật là đau khổ khi phải nhìn thấy người đang ốm
cũng cố lết đi. Đa số dân Công giáo Nghệ An sống gần bờ biển. Ở một số
vùng trong tỉnh, làng mạc hoang vắng. Những khẩu hiệu đã thuyết phục họ
rằng Chúa vào Nam”.
Tín và các đồng đội của mình làm mọi việc có thể được: “Ban đầu dân
sợ không dám để chúng tôi vào nhà. Chúng tôi không mang theo vũ khí và
chỉ ở đó để giúp đỡ họ. Lính của tôi cũng không cầm được nước mắt trước
đau khổ của họ”. Người của Tín nhường khẩu phần lương thực cho họ,
mang hộ đồ đạc, bế con cho họ. Anh em bộ đội còn cõng cả người già trên
lưng trên đoạn đường đến hơn 10 km ra chỗ tàu đậu, trước khi trở về đơn vị.
Trên một triệu người đã di cư vào Nam.
Trong khi diễn ra làn sóng di cư đó, Võ Nguyên Giáp còn phải lo đưa
bộ đội ở Nam giới tuyến ra tập kết ở miền Bắc như Hiệp định Geneva quy
định. Các đơn vị đó rồi đây sẽ phải làm gì? Võ Nguyên Giáp có ý muốn
không để mất những thành tựu đã vất vả mới giành được ở các vùng phía
Nam vĩ tuyến 17 nay sẽ giao cho đối phương quản lý. Ông ra lệnh cho phần
lớn lực lượng tập kết ra Bắc nhưng cũng ra chỉ thị người miền Nam trước
đây đã chiến đấu trong hàng ngũ Việt Minh phải chuyển vào hoạt động bí
mật, cất giấu vũ khí, ngụy trang các cửa hầm. Đó là những con người đã
từng hoạt động ở Chiến khu C và D ở phía bắc và đông bắc Sài Gòn, trong
vùng Phước Tuy ở phía đông nam Sài Gòn và vùng sông Tiền, sông Hậu
trên bán đảo Cà Mau. Võ Nguyên Giáp quyết định phải giữ gìn các căn cứ