phía bắc Sài Gòn, tiêu diệt hai người Mỹ của không lực Hoa Kỳ là thiếu tá
Dale Buis, sĩ quan chuyển sang ngành an ninh quân đội và trung sĩ nhất
Chester Ovnand.
Nhịp độ cách mạng tăng dần. Ngày 5/9/1960, tại Đại hội III của Đảng,
Chính phủ Hồ Chí Minh ra tuyên bố ủng hộ cuộc nổi dậy ở miền Nam. Đại
hội tuyên bố không còn chút hy vọng nào thực hiện mục tiêu thống nhất đất
nước bằng tuyển cử trên phạm vi cả nước. Chỉ có đấu tranh vũ trang mới có
thể giành thắng lợi cuối cùng.
Tháng 12/1960, theo một thông báo công bố tại Hà Nội, một hội nghị
họp tại “một nơi ở miền Nam” gần biên giới Campuchia đã thành lập Mặt
trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. “Mặt trận” đó cũng như nhiều
mặt trận đã tồn tại từ hai ba chục năm trước là một sách lược quen thuộc của
cộng sản nhằm đoàn kết các tầng lớp nhân dân, các đảng phái, các nhóm
chính trị hoặc tổ chức quần chúng không phân biệt xu hướng chính trị, có
tinh thần quốc gia chống lại chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. Tất cả các tổ
chức đều không tín nhiệm cách thức cai trị của Diệm và mong muốn đưa
miền Nam khỏi sự khống chế của chính quyền Ngô Đình Diệm. Đó là các
phong trào nông dân, thanh niên, phụ nữ, trí thức và nghệ sĩ, những người
hoạt động giáo dục, nghệ thuật, tôn giáo, chính trị. Mặt trận cũng kêu gọi
các lực lượng vũ trang của các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên.
Ngay từ đầu, những nhà lãnh đạo cộng sản miền Bắc đã kiểm soát Mặt
trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Mọi sáng kiến và sự lãnh đạo
đều từ Đảng Nhân dân Cách mạng miền Nam. Cũng như Mặt trận Dân tộc
giải phóng, Đảng Nhân dân Cách mạng miền Nam chính là một cách khôn
khéo được Bộ Chính trị ở miền Bắc lập ra. Được tổ chức như thế, Mặt trận
Dân tộc giải phóng và Đảng Nhân dân Cách mạng có thể yêu cầu “độc lập”
trước thế giới. Đó là những phong trào sinh ra ở miền Nam và nhằm báo cho
thế giới biết rằng Bắc Việt Nam không phải là đang phá hoại hiệp định
Geneva, gửi lực lượng quân sự vào nam vĩ tuyến 17. Các hoạt động quân sự