về khoa học vũ khí của ông. Thông thường, Thống chế khinh khi những biệt
danh được đặt cho ông như “gã thộn của Berthier” hoặc là “cáo đội lốt
hùm”, bởi vì ông là con trai của một người bán dầu ôliu vùng Nice, một thời
từng tham gia buôn lậu. Không phải ông sinh ra là để làm Thống chế, hay để
làm Công tước, ông không giống như những kẻ khốn nạn được nhặt ra từ
trong giới chức nhà băng hoặc trong giới quý tộc, những Hầu tước, những
kẻ tự phụ hợm mình nhét đủ loại sáp tóc, dầu xức và những đồ vệ sinh trong
túi đạn, những kẻ như Flahaut, Pourtalès, Colbert, Nicolales, Girardin,
Montesquiou, Périgord… Ông không coi Lejeune là một trong số họ, mà coi
anh như một nhà Quý tộc đúng nghía nằm trong bè nhóm này, dù rằng, cũng
giống như họ, Lejeune được đào tạo những phép xã giao, lễ nghi của giới
Quý tộc tại nhà Gardel, một người thầy dạy balê của nhà hát Opéra. Hơn
nữa, Lejeune còn là một họa sĩ có tài được Bệ hạ đánh giá cao.
– Anh đã xác định được các vị trí bắc cầu chưa? Masséna hỏi.
– Thưa Công tước, rồi ạ.
– Kết quả thế nào? Khoảng cách bắc cầu là bao nhiêu?
– Khoảng tám trăm mét.
– Có nghĩa là phải có tám chục chiếc thuyền để làm điểm tựa cho sàn
cầu…
– Tôi đã dự kiến được một con suối, thưa ngài Công tước, tại đó, chúng
ta có thể thu xếp làm nơi tập kết phương tiện một cách an toàn.
– Thế còn ván sàn, cứ cho là chín ngàn tấm… để có được chừng đố thôi
thì đã phải chặt cả một cánh rừng rồi, mà ở xứ sở nghèo nàn này thì đào đâu
ra cơ chứ?
– Nhưng vẫn phải có bốn ngàn cái xà, chừng khoảng đó, và ít nhất phải
có chín ngàn mét dây chão thật chắc.
– Ừ, lại còn mỏ neo nữa.
– Hoặc phải dùng thùng câu của dân chài lèn chặt đá thả xuống thay mỏ
neo cũng được, thưa ngài Công tước.