binh đội và binh đoàn mà tập đoàn quân 6 Đức đã tập trung được ở ngoài
mặt trận phải chuyển sang phòng ngự”. Một tuần sau, Phi-líp-pi viết, bộ chỉ
huy tập đoàn quân 6 Đức buộc phải tuyên bố: “Các lực lượng chủ yếu của
tập đoàn quân 5 Nga vẫn gây cho ta một nguy cơ khiến chúng ta phải thanh
toán bằng được trước khi tiến công vào Ki-ép”.
– Nhưng tiếc rằng chúng tôi không có lực lượng để giáng những đòn đột
kích có tính chất quyết định, - tư lệnh tập đoàn quân nói.
– Nhưng đồng chí có ba quân đoàn cơ giới, - tôi nhắc lại. – Không một
tập đoàn quân nào của phương diện quân có được những lực lượng như thế.
– Đấy, đấy! – tư lệnh tập đoàn quân chớp lấy. – Các đơn vị bạn nghe thấy
có ba quân đoàn cơ giới thì làm gì mà họ chẳng ganh: “Pô-ta-pốp chiến đấu
được thôi”. Nhưng đồng chí cũng biết rõ không kém tôi là ba quân đoàn ấy
ở trong tình trạng như thế nào.
Pô-ta-pốp dẫn ra những số liệu: quân đoàn cơ giới 9 (trước ngày 19
tháng Bảy do C. C. Rô-cô-xốp-xki chỉ huy, nay thuộc tướng A. G. Ma-
xlốp) chỉ có ba ươi xe tăng hạng nhẹ, quân đoàn cơ giới 22 của V. C. Tam-
ru-tsi có bốn mươi chiếc, N. V. Phê-cơ-len-cô ở quân đoàn 19 có nhiều xe
tăng hơn, gần bảy mươi chiếc, trong đó có 30 chiếc hạng vừa và hạng nặng,
còn các quân đoàn khác không hề có xe tăng loại này.
– Nếu tập trung hết số xe tăng đó lại thì cũng không đủ cho một sư đoàn
xe tăng bình thường. Thế mà đồng chí nói tới ba quân đoàn cơ giới! – Pô-
ta-pốp bực bội nói. – Thêm nữa, trong những ngày chiến đấu, xe đã chạy
trên một nghìn ki-lô-mét, đòi hỏi phải có những sửa chữa kỹ thuật lớn, nên
không có gì phải tị với chúng tôi.
– Nhưng các tập đoàn quân khác có nhiều lý do hơn nữa để kêu ca…
– Đúng, đúng, - Pô-ta-pốp vội vã đồng ý. – Tất nhiên, đồng chí nói đúng:
so với các tập đoàn quân của Mu-dư-tsen-cô và Pô-nê-đê-lin thì chúng tôi
có khá hơn.
Tư lệnh tập đoàn quân phàn nàn bị thiếu đạn, nhất là đạn xuyên thép: đạn
chở được đến đâu bắn hết đến đấy, không còn để dự trữ.