một lữ đoàn xe tăng không có chiếc xe tăng nào (toàn bộ gồm 19 nghìn
người, 60 đại liên, 95 trung liên, 21 pháo và 5 súng cối).
So sánh lực lượng ta và địch (trong tiến trình chiến dịch, những số liệu
được khẳng định là gần đúng hoàn toàn) thì kết quả không có gì đáng vui.
Nếu như về sinh lực, chúng tôi nhiều hơn 8 nghìn người, thì về súng máy,
địch lại hơn rất nhiều (địch có hơn hai nghìn, còn chúng tôi chưa đến một
nghìn), đối phó với 470 pháo và súng cối của địch, chúng tôi chỉ có 245,
địch có 40 – 50 xe tăng, trong khi chúng tôi không có một chiếc nào.
Theo lý thuyết của nghệ thuật quân sự thì với tương quan lực lượng như
vậy sẽ không thể tiến công được. Nhưng mùa thu năm 1941, Hồng quân
ngày càng bác bỏ những quy tắc cũ. Dẫn chứng là chiến dịch tiến công của
chúng tôi vừa tiến hành ở gần Rô-xtốp.
Những tướng lĩnh của chúng ta thường hay nhắc lại câu châm ngôn thân
thiết của Xu-vô-rốp: “Trong chiến tranh hãy làm những gì mà đối phương
cho là không thể làm được”.
Đọc nội dung bản mệnh lệnh chiến đấu tiến công gửi cho bộ đội cụm cơ
động, tôi hết sức ngạc nhiên thấy nó khác xa với chỉ lệnh chiến đấu của bộ
tham mưu phương diện quân. Bô-đin ra lệnh cho cụm cơ động của chúng
tôi giáng đòn đột kích chủ yếu vào Líp-nư, còn tướng Cô-xten-cô lại hướng
chệch sang bên phải khá nhiều, về phía Ê-lê-txơ.
– Cô-xten-cô cho rằng làm như thế tốt hơn, Pê-tơ-ru-sép-xki giải thích
ngắn gọn.
Tôi đọc lại một lần nữa chỉ lệnh chiến đấu của bộ tham mưu phương diện
quân. Nhiệm vụ được xác định rõ ràng:
Tập đoàn quân 3 phải giữ tuyến phòng ngự đã chiếm lĩnh và hành động
tích cực trên hướng đi Ê-phrê-mốp, Ác-khan-ghen-xcôi-e để kìm chân bọn
phát-xít ở khu vực này (hành động tích cực có nghĩa là tiến công);
Tập đoàn quân 13 phải dùng một phần lực lượng tiến công ở phía Bắc Ê-
lê-txơ để đón cụm quân cơ động, không cho địch chiếm thành phố Ê-lê-txơ;