căn nhà trên Đồi Putney nơi anh ta làm ổ. Nơi đó là hầm chứa than trong
nhà, và khi tôi thấy công trình mà anh đã làm mất một tuần - nó là cái hang
dài chưa tới mười mét mà anh đã nhắm đào tới đường cống chính trên Đồi
Putney - tôi có ý niệm mơ hồ đầu tiên về khoảng cách xa vời giữa điều anh
ước mơ so với sức lực của anh. Một lỗ như thế tôi có thể đào trong một
ngày. Nhưng tôi tin anh, đủ để cùng đào với anh suốt buổi sáng cho tới quá
trưa. Chúng tôi có chiếc xe cút kít làm vườn và đổ chỗ đất đã đào lên bếp
lò. Chúng tôi lấy lại sức bằng lon xúp giả ba ba và rượu vang trong buồng
chứa thực phẩm bên cạnh. Nhờ việc lao động đều đặn này tôi cảm thấy
khuây khỏa lạ lùng, quên đi sự kỳ dị nhức nhối của thế giới bên ngoài.
Trong lúc đào, tôi nghiền ngẫm kế hoạch của anh, và lập tức những ý phản
đối và hoài nghi bắt đầu trỗi dậy, nhưng tôi làm việc ở đó suốt buổi sáng,
mừng rỡ thấy mình lại sống có mục đích. Sau khi làm việc một giờ, tôi bắt
đầu ước tính khoảng cách phải đào tới đường cống, và khả năng chúng tôi
hoàn toàn lệch hướng. Băn khoăn trước mắt của tôi là tại sao chúng tôi đào
cái đường hầm dài này, trong khi có thể từ một miệng cống chui ngay
xuống, rồi tìm đường ngược về nhà. Tôi cũng cảm thấy chọn căn nhà này là
bất tiện, vì sẽ cần một đường hầm dài không cần thiết. Đúng lúc tôi bắt đầu
nhìn ra những điều này, người lính pháo binh ngưng đào nhìn tôi.
Anh đặt cái xẻng xuống và nói: “Mình đào khá đó. Mình nghỉ một lát.
Tôi nghĩ đã tới lúc mình lên mái nhà do thám.”
Tôi đề nghị tiếp tục đào, và sau một chút do dự anh lại cầm xẻng lên,
khi ấy tôi chợt có một ý nghĩ. Tôi dừng lại, và anh cũng lập tức dừng.
Tôi hỏi: “Tại sao anh la cà quanh bãi đất công, thay vì ở đây?”
Anh nói: “Ra ngoài thở rồi quay về. Ban đêm an toàn hơn.”
“Nhưng còn chuyện đào hầm?”
Anh nói: “Ồ, đâu có đào mãi được,” và trong chớp mắt tôi thấy rõ
người đàn ông này. Anh ta ngập ngừng cầm xẻng. Anh nói: “Bây giờ mình
nên đi do thám, vì nếu ai tới gần thì họ có thể nghe tiếng xẻng rồi tạt vào
mà mình không biết.”