mỏng bốc thẳng lên hơi nóng ban chiều. Tôi chưa từng thấy nhà cháy mà
lại không có một đám đông cản đường. Xa xa đám sậy khô sát bờ bốc khói
đỏ rực, và một đường lửa sâu trong đất liền đang tiến đều đặn trên cánh
đồng cỏ khô gặt muộn.
Tôi trôi dạt một lúc lâu, đau nhức và mệt lả vì những chuyện khốc liệt
vừa mới trải qua, và vì hơi nóng trên mặt nước quá gắt. Rồi nỗi sợ hãi lại
thắng thế, tôi tiếp tục gạt nước. Mặt trời thiêu đốt tấm lưng trần của tôi.
Cuối cùng, khi thấy chiếc cầu ở Walton bên kia khúc quanh, cơn sốt và kiệt
lực đã chiến thắng nỗi sợ hãi, thế nên tôi cập bờ ở Middlesex và nằm
xuống, mệt chí tử giữa bãi cỏ cao. Tôi đoán lúc ấy khoảng bốn hay năm
giờ. Lát sau tôi đứng lên, đi độ nửa dặm mà không gặp một bóng người, rồi
lại nằm xuống dưới bóng râm của một bờ giậu. Tôi nhớ loáng thoáng đã nói
lảm nhảm một mình trong lần cố gắng cuối cùng ấy. Tôi cũng khát cháy
họng, và cay đắng hối tiếc mình đã không uống nhiều nước. Thật lạ, tôi
cảm thấy giận vợ mình; không hiểu vì sao nhưng tôi thấy lo lắng khôn
nguôi khi không thể tìm về Leatherhead.
Tôi không nhớ rõ vị cha xứ đến lúc nào, vì chắc khi ấy tôi đã thiếp
ngủ. Khi thức dậy tôi thấy hình dáng ông ngồi, hai tay áo lấm lem bồ hóng,
mặt ngẩng lên, mày râu nhẵn nhụi, mắt nhìn đăm đăm ánh bập bùng nhạt
nhòa đang nhảy múa trên bầu trời. Bầu trời đầy mây trắng như bông, từng
dải mây nhẹ tựa lông chồn, hơi nhuốm màu hoàng hôn giữa mùa hè.
Tôi ngồi dậy, tiếng cử động sột soạt làm ông vội nhìn tôi.
Tôi hỏi ngay: “Ông có nước uống không?”
Ông lắc đầu.
Ông nói: “Anh hỏi xin nước nãy giờ cả tiếng rồi.”
Chúng tôi im lặng một lát, nhìn nhau dò xét. Tôi dám nói ông ta thấy
tôi là một kẻ khá lạ lùng, trần trụi, chỉ độc cái quần và đôi tất sũng nước, da
bỏng, mặt và vai nhuốm đen vì khói. Mặt ông có vẻ khá yếu đuối, cằm ông
móm, tóc ông quăn thành những lọn gần như nâu nhạt trên cái trán thấp,