múa trên trần nhà. Chú nằm sửng sốt trong phút chốc, tự hỏi trời đã sáng
hay thiên hạ đã hóa điên. Rồi chú nhảy ra khỏi giường và chạy tới cửa sổ.
Phòng chú ở tầng gác mái. Khi chú thò đầu ra, tiếng ồn ã từ đầu đường
đến cuối đường vọng lại khung cửa sổ phòng chú, và rồi hiện ra những cái
đầu người đủ kiểu bù rối lúc ban đêm. Tiếng hỏi han la hét. Một viên cảnh
sát vừa đập cửa vừa nói oang oang: “Bọn nó đến! Người Hỏa tinh đến!” rồi
vội vàng đi qua nhà kế bên.
Tiếng kèn trống nổi lên từ phía doanh trại phố Albany, và mọi nhà thờ
trong tầm nghe đều ra sức kéo chuông báo động náo loạn inh ỏi để đánh
thức mọi người. Tiếng cửa nẻo mở ra ầm ĩ, và cửa sổ từ nhà này qua nhà
khác bên dãy đối diện lóe lên ánh vàng vọt xua tan bóng đêm.
Từ đầu đường một cỗ xe che kín phi nước đại đột ngột vụt qua ầm ĩ ở
góc đường, tiếng lóc cóc lên tới cực điểm dưới cửa sổ phòng chú rồi tắt dần
ngoài xa. Sát theo sau nó là hai chiếc xe chở khách, đi đầu một đoàn dài xe
lánh nạn, phần lớn tới nhà ga Chalk Farm, ở đó các chuyến xe lửa đặc biệt
tuyến Tây Bắc đang nhồi nhét người lên thay vì chạy xuống dốc để tới ga
Euston.
Em tôi sửng sốt đờ đẫn ngó đăm đăm ra cửa sổ một lúc lâu, nhìn đám
cảnh sát vừa gõ cửa này qua cửa khác vừa loan báo tin khó hiểu. Rồi cánh
cửa phía sau chú mở ra, một anh chàng ở trọ bên kia chiếu nghỉ cầu thang
bước vào, chỉ mặc áo sơ mi và quần, đi dép, dây đeo quần lủng lẳng bên
hông, tóc rối bù.
Anh ta hỏi: “Cái quái gì thế? Cháy hả? Om sòm cái quái gì vậy?”
Cả hai nghểnh đầu ra cửa sổ, cố nghe xem mấy viên cảnh sát đang la
hét cái gì. Người từ các ngõ ngang đang chạy ra, đứng thành nhóm ở góc
đường nói chuyện.
Anh chàng trọ cùng nhà với em tôi hỏi: “Chuyện quái gì vậy?”
Em tôi mơ hồ đáp lời anh ta rồi bắt đầu mặc quần áo, vừa xỏ áo xỏ
quần vừa chạy tới cửa sổ để khỏi bỏ lỡ cảnh kích động đang mỗi lúc một