gì tôi đã biết. Tôi đã sống những ngày và đêm của tôi để mà nếm trải đau
khổ của mình...”
“Tôi nhìn qua cửa sổ và tôi ngỡ nhìn thấy anh ấy đang ngồi bên ngoài.
Có lúc, buổi tối, tôi có những ảo giác ấy. Tôi đã già, nhưng anh ấy, tôi thấy
anh ấy bao giờ cũng trẻ. Giống như anh ngày anh ra đi. Nếu anh hiện ra
trong các giấc mơ của tôi, thì bao giờ cũng là trong những nét của một
người trai trẻ. Và tôi cũng trẻ.
Tất cả phụ nữ ở chỗ tôi đều nhận được một giấy báo tử, còn tôi là một tờ
giấy, trên đó viết: “mất tích”, bằng mực xanh. Mười năm đầu, tôi chờ anh
từng ngày. Tôi vẫn còn chờ anh. Hễ người ta còn sống, là người ta còn hy
vọng...”
“Mà làm sao một người đàn bà có thể sống cô đơn? Một người đàn ông
đến nhà tôi: anh ta giúp tôi hay anh ta chẳng làm gì cả thì đều là tai họa.
Mỗi người nói một cách. Người thì đàm tiếu, chó thì sủa. Nhưng giá như
Ivan của tôi có thể nhìn thấy năm đứa cháu của anh. Đôi lúc, tôi đứng trước
ảnh anh, tôi chỉ cho anh những bức ảnh của bọn nhỏ. Tôi trò chuyện với
anh...”
“Ngay sau chiến tranh tôi có một giấc mơ: tôi bước ra sân và chồng tôi ở
đó, đang rảo bước. Mặc quân phục. Và anh gọi tôi. Tôi tung chăn nhảy dậy,
tôi mở cửa sổ... Mọi vật lặng im. Không nghe cả một tiếng chim. Chúng
ngủ. Gió vuốt ve vòm lá. Tưởng như anh huýt sáo...
Buổi sáng, tôi lấy một tá trứng và tôi đi gặp một người Di-gan. “Anh ấy
không còn, bà nói sau khi đã rút bài. Đừng chờ, vô ích. Đấy là linh hồn anh
ấy quẩn quanh quanh nhà cô.” Mà, anh và tôi, cô biết đấy, chúng tôi lấy
nhau vì tình yêu. Một tình yêu lớn...”
“Một bà xem bói dạy tôi cách làm thế này: “Khi mọi người đã ngủ, hãy
trùm một chiếc khăn đen và ngồi trước một tấm gương lớn. Anh ấy sẽ hiện
ra trong đó... Cô không được sờ vào anh, cũng không được chạm vào quần
áo của anh. Chỉ được nói với anh thôi...” Tôi đã ngồi suốt đêm trên ghế...
Anh đến ngay trước bình minh... Anh không nói gì cả, anh im lặng và nước