của cộng đồng. Chúng tôi đặt mọi thứ chung với nhau: cả hạnh phúc và cả
nước mắt. Chúng tôi chịu đựng và nói về những đau khổ của chúng tôi. Đối
với chúng tôi, đau khổ là một nghệ thuật. Tôi phải thú nhận rằng phụ nữ
mạnh bạo dấn mình vào con đường đó...
Họ đã đón nhận tôi như thế nào?
Họ gọi tôi là “cô gái nhỏ”, “con gái tôi”, “con tôi”. Chắc hẳn nếu tôi
cùng thế hệ với họ, họ sẽ đối xử với tôi cách khác. Nghiêm khắc hơn và
bình tâm hơn. Không có niềm vui thường có được trong gặp gỡ giữa già và
trẻ. Khởi đầu và kết thúc. Tôi trẻ, họ già. Họ cắt nghĩa các sự việc cho tôi
như cho một đứa trẻ con. Từ lâu tôi đã có nhận xét ta nói chuyện hay hơn
cả là với trẻ con: khi đó ta tìm những từ mới, vì nếu không ta sẽ không thể
vượt qua được ranh giới chia cách ta với cái thế giới mà từ nay không thể
bước vào được nữa. Tôi thường thấy những người phụ nữ ngồi trước mặt
tôi lắng tai nghe chính bản thân mình. Vào cái tiếng cất lên từ tim họ. So
sánh nó với những từ họ nói. Đến tuổi già, cá nhân con người hiểu rằng
cuộc đời từ nay đã ở sau lưng mình, và bây giờ phải cam chịu và chuẩn bị
ra đi. Họ không muốn, họ thậm chí sẽ giận tức phải biến đi một cách đơn
giản đến như thế. Không lo nghĩ gì hết. Trên con đường này. Và khi nhìn
lại phía sau, họ cảm thấy trong mình một mong muốn không chỉ tự kể lại
mà còn đạt đến bí ẩn của cuộc đời. Mong muốn đặt cho mình câu hỏi: “Để
làm gì vậy tất cả những gì đã đến với ta?” Họ quay một cái nhìn vĩnh biệt
hơi buồn rầu về quá khứ của họ... Họ chẳng còn có cớ gì mà lừa phỉnh
chính mình và lừa phỉnh người khác. Và cũng chẳng ham muốn gì vì không
còn thời gian để mà chơi. Mọi sự đã quyết định và sát gần với điều bí ẩn. Bí
ẩn cuối cùng.
Chiến tranh là một thử thách quá riêng tư. Và cũng bất tận như sự tồn tại
của nhân loại...
Một lần, một phụ nữ (một nữ phi công) đã từ chối gặp tôi. Bà đã giải
thích cho tôi qua điện thoại: “Tôi không thể. Tôi không muốn nhớ lại. Ba
năm trải qua chiến tranh... Và suốt ba năm, tôi không còn là một phụ nữ.