phía “bên kia”. Trong số này, có ai được xem là đáng được cộng đồng tin
cậy hay đánh giá cao về tài năng và chất lượng. Nếu giả thử chẳng có “ma”
nào xứng đáng, thì ai khác mới là xứng đáng sao không đề nghị họ nạp đơn
dự tuyển. Nếu họ rất xứng đáng mà không được nhận thì họ có thể nạp đơn
kiện, và kiện tụng như vậy là hợp lý. Nhưng đến nay đã có trường hợp nào
như vậy đâu. Còn tiêu chuẩn để gọi là xứng đáng thì khó nói lắm, và không
nên cho rằng về sự đánh giá này thì các tổ chức cộng đồng có khả năng hơn
là đại học.
Không thể chỉ nhìn thấy những gì mình không thích mà quên tất cả những
đóng góp khác. Người Mỹ hay người gốc Việt có thể có những đóng góp
rất lớn vào chương trình này. Cần phải có một đánh giá trung thực về việc
làm của họ. Sự khen chê phải công bình và có nền tảng khoa học, không
thể chỉ dựa trên những xúc động và giả thiết. Vì họ chiếm đa số tuyệt đối
nên ảnh hưởng của họ mới thật sự quan trọng. Nếu chỉ vì lo sợ “sự bôi
nhọ” có thể có từ phía các học giả trong nước rồi tuyên bố với mọi người
về ảnh hưởng tai hại của chương trình này, rồi kéo cả cộng đồng vào một
cuộc chiến rất giả định, là một hành động rất thiếu nghiêm chỉnh. Ðiều tốt
nhứt nên làm là lập nên một ủy ban, gồm những học giả mà UBVÐ cho là
giỏi nhất, đọc và đánh giá, có phương pháp khoa học, tất cả công trình của
25 người, và xuất bản kết quả đánh giá đó. WJC đã đồng ý kèm những
phản bác của cộng đồng trong chương trình chính thức của họ. Thì đây
chính là một trong những tài liệu mà họ phải kèm vào. Nếu làm được,
UBVÐ chứng tỏ là ngoài chuyện kiện tụng, mình vẫn có một đóng góp trí
thức và tích cực. Dĩ nhiên, trong sinh hoạt trí thức, không có đánh giá nào
được xem là có quyền uy tuyệt đối. Ðánh giá của UBVÐ cũng sẽ là mục
tiêu cho một hay nhiều đánh giá khác. Tôi cũng đề nghị UBVÐ nên trích
một ít từ số tiền quyên góp để tài trợ cho nỗ lực này và trả thù lao cho các
học giả tham dự. Không thể chỉ rộng rãi với luật sư nhưng hà tiện với học
giả.
Ai có quyền áp đặt sự suy nghĩ của mình lên các thế hệ kế tiếp của
cộng đồng?