quy định cách sống, cách nghĩ, bản lãnh bản sắc của từng cá nhân
trong cộng đồng dân tộc. Trốn chạy khỏi tổ quốc, tách biệt khỏi dân
tộc tạo ra một loạt phản ứng tâm lý tiêu cực: phản bội, thua cuộc, vọng
ngoại, mất gốc... Lúc đầu, song song với tâm lý trên cũng phải kể tới
tâm lý phục thù. Tâm lý này dựa trên hai tiền giả định: thứ nhất, cuộc
đời là một canh bạc, một ván cờ, thua keo này bày keo khác; thứ hai:
tình hình quốc tế và quốc nội có thể đảo ngược. Về sau tâm lý này dần
dần mờ nhạt đi [có lẽ vì thấy tình hình khó có thể đảo ngược, hoặc
xuất hiện những yếu tố mới (hội nhập, toàn cầu hóa) hoặc phương
cách đấu tranh cũ không hữu hiệu (vụ Fulro trước kia, vụ Tây Nguyên
hiện nay]. Tâm lý những người xa quê hương lúc này lắng xuống
thành một thứ mặc cảm có tính phổ biến và khá đặc trưng của lớp
người Việt lưu vong: mặc cảm tự ti.
Người ở lại có mặc cảm tự tôn (vì được tham dự vào chiến thắng, vì
được cả một hệ thống tôn ti trật tự, chuẩn mực, tiêu chuẩn xã hội bảo
đảm cho mặc cảm tự tôn của mình) và cũng có nhiều thành phần khác
có mặc cảm tự ti (vì những tiêu chuẩn trong đảng ngoài đảng, lý lịch,
thành phần). Ðiều đáng nói ở đây là mặc cảm tự tôn thường thấy ở
người trong nước và mặc cảm tự ti ở Việt kiều. Xét trong hoàn cảnh
riêng biệt cụ thể, có những văn nghệ sĩ, trí thức, nhà khoa học ...có tài,
được bạn bè và xã hội quý trọng, họ ý thức rõ điều này và có mặc cảm
tự cao về mình – tôi nghĩ thái độ tự cao đó thật cũng xứng đáng. Tuy
nhiên, nhìn chung những người ra đi có mặc cảm tự ti. Hình như định
mệnh (hoặc lịch sử, vận nước, thời cuộc?) đã lựa chọn cho họ một số
phận như vậy, cho tự tôn hoặc bắt phải tự ti. Một thứ chủ nghĩa lý lịch
thời toàn cầu hóa.
Sự thực không phải như vậy. Mặc cảm nói chung và mặc cảm tự tôn -
tự ti nói riêng chỉ là một trạng thái tâm lý có tính giai đoạn chứ không
phải là một thuộc tính cố định, nhất sinh bất biến, gắn chặt vào cuộc
đời một con người. Một trong những nguyên tắc để giải tỏa mặc cảm