là phải vượt qua nhân vật hoặc hoàn cảnh đã sinh ra mặc cảm. Ðiều
kiện giải tỏa mặc cảm thực ra hiện diện ngay trước mắt chúng ta.
1975: trong chiến tranh giải phóng dân tộc, những người bỏ tổ quốc ra
đi bị mặc cảm tự ti, những người chiến thắng ở lại có mặc cảm tự tôn.
Từ những năm 1990 đến nay, trong hòa bình xây dựng đấtnước, a)
Chủ nghĩa xã hội đã từng một lần bị phá sản vì không đáp ứng được
yêu cầu của thời đại, sau đó đã phải sửa sai, đổi mới để đi vào hội
nhập, toàn cầu hóa; b) Trong hội nhập, toàn cầu hóa, chính khối lượng
Việt kiều hải ngoại lại có những điều kiện thuận lợi hơn (về tri thức
chuyên môn, về tổ chức quản lý xã hội đại công nghiệp, kinh tế thị
trường, về khả năng tài chánh, về các mối bang giao quốc tế v.v.) để
đáp ứng những yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Nói
cách khác, những người có mặc cảm tự ti đang trở thành người có
mặc cảm tự tôn, và ngược lại, những người có mặc cảm tự tôn đang
mang mặc cảm tự ti (thua kém về tri thức, thiếu khả năng, mất dần
những đặc quyền đặc lợi, chia rẽ, tham nhũng, thoái hóa biến chất...).
Lấy một thí dụ điển hình trong phạm vi văn học nghệ thuật: Những
người cầm bút Việt Nam ở hải ngoại tự hào về chủ nghĩa hậu hiện đại
– trong lý luận phê bình và sáng tác văn học – và đang tìm cách du
nhập nó vào Việt Nam, bổ sung cho chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ
nghĩa. Ðối với một số người, từ 1954 đến nay, tại Việt Nam chưa từng
tồn tại một nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa mà chỉ có một thứ
văn chương thời vụ, mang nặng tính khẩu hiệu và tuyên truyền. Nếu
vấn đề học thuật trên được thảo luận công khai, thẳng thắn và đầy
thiện chí giữa người Việt hải ngoại và ở trong nước, ta có thể thấy ai
đang tự tôn, ai đang tự ti?!
Giải tỏa mặc cảm tự tôn hoặc tự ti là điều cần thiết. Nó giúp ta quẳng
bớt một gánh nặng tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực. Mặt khác, nó giúp
nhìn nhận và giải quyết vấn đề một cách khách quan khoa học hơn.
Tuy nhiên điều quan trọng nhất không phải là giải tỏa mặc cảm hoặc