Những bài thơ viết về chiến tranh ở phần “Hương cây” của anh trong tập
thơ đầu tay in chung với Bằng Việt (1968) có chung giọng điệu dịu dàng,
ngọt ngào, lãng mạn của thơ chống Mỹ hồi đầu, ví như “Tầng năm”, “Vườn
trong phố”. Nhưng anh đã rất nhanh đối khác mình khi đối mặt với thời
cuộc, với chiến tranh. Anh tuyên bố “Giữa chiến tranh hiểu đời thực hơn
nhiều, Rách tan cả những làn sương đẹp phủ”. Anh chán cả bạn bè vì “mấy
năm rồi họ chẳng nói được câu gì mới”. Thơ anh những năm 1970 – 1975
chỉ viết cho mình về sự thực cuộc sống và sự thực lòng mình. Cố nhiên, thơ
đó không thể nào đăng lên báo được thời đó, và cả một quãng dài sau 1975
nữa.
Khi con người giết nhau
Những lá thư không biết gửi về đâu
Những hải cảng không có tàu cập bến
(Lá thu)
Hòa bình đến mong manh
Nhiều tin đồn mà chẳng có gì ăn
(Liên tưởng tháng Hai)
Tổ quốc là nơi tỏa bóng yên vui
Nơi nghĩ đến lòng ta yên tĩnh nhất
Nhưng nghĩ đến Người lòng tôi rách nát
Xin Người đừng trách giận, Việt Nam ơi
Người có triệu chúng tôi, tôi chỉ có một Người
Tất cả sẽ ra sao
Mảnh đất nghèo máu ứa?
Người sẽ đi đến đâu
Hả Việt Nam đói khổ?
Đến bao giờ bông lúa
Là tình yêu của Người?
(Việt Nam ơi)