khôi hài làm sao khi đó đúng là bệnh viện lẽ ra tôi được gửi đến. Như hầu
hết những người khác, ông ta cũng bị tuyên án ba năm, được thả sau khi đã
thụ án hai năm rưỡi.
Chúng tôi tám một chút chuyện nọ chuyện kia. Và một lúc sau tôi bắt đầu
thấy thoải mái. Tôi gọi cho ông ta một cốc bia và nói về cơ sở vật liệu xây
dựng tôi điều hành. Tôi nói với ông ý của mình: đối với những người như
chúng ta tốt nhất là tự mình mở cái gì đó, vì hầu hết các công ty đều từ chối
tuyển mộ tính từng chiến đấu ở Mặt trận phía Đông (đặc biệt là các công ty
có hợp tác làm ăn với người Đức trong chiến tranh).
“Còn anh thì sao?” Ông ta hỏi.
Tôi giải thích rằng việc gia nhập “đúng phe” chẳng giúp tôi được nhiều.
Tôi vẫn còn mặc bộ quân phục Đức.
Mosken ngồi đó suốt thời gian vẫn giữ nguyên nụ cười nửa miệng trên
môi, và đến cuối cùng ông ta không kềm chế được nữa. Ông ta bảo rằng
ông ta đã cố gắng lần theo dấu tôi từ lâu lắm rồi, nhưng toàn bộ các dấu
vết đã dừng ở Hamburg. Ông ta suýt bỏ cuộc thì một hôm nhận ra cái tên
Sindre Fauke trong một bài báo về những người lính Kháng chiến. Việc đó
lại làm ông ta thấy quan tâm; ông ta đã tìm ra nơi Fauke làm việc rồi gọi
điện tới. Ai đó mách cho ông ta biết rằng có lẽ tôi đang ở quán Schreder.
Tôi thấy căng thẳng. Nhưng điều ông ta nói cực kỳ khác với những gì tôi
đã hình dung.
“Tôi chưa bao giờ cảm ơn anh cho đúng vì đã ngăn Hallgrim Dale bắn
chết tôi lần đó. Anh đã cứu mạng tôi, Johansen."
Tôi nhún vai và há miệng nhìn chằm chằm để chuyện đó bớt trầm trọng.
Tôi chỉ có thể làm được chừng ấy.
Mosken nói rằng tôi đã chứng tỏ là người có đạo đức khi cứu mạng ông
ta. Vì tôi có lý do chính đáng để mong cho ông ta chết. Nếu người ta phát
hiện ra thi thể của Sindre Fauke, Mosken có thể làm chứng rằng có lẽ tôi là
kẻ sát nhân. Tôi chỉ gật đầu. Sau đó ông ta nhìn tôi và hỏi tôi rằng tôi có sợ
hãi ông ta không. Tôi nhận ra rằng mình chẳng còn gì để mất, bèn kể ông
ta nghe toàn bộ câu chuyện chính xác như nó đã xảy ra.