18
Vườn thượng uyển.
Ngày 10 tháng Mười một năm 1999.
Đó là một buổi tối trời trong, lạnh lẽo. Điều đầu tiên khiến lão già chú ý khi
bước ra khỏi nhà ga tàu điện ngầm là vẫn còn đầy người trên phố. Lão đã
mường tượng là trung tâm này sẽ gần như vắng hoe, tuy nhiên mấy chiếc
taxi ở phố Karl Johans đang vụt qua vụt lại dưới ánh đèn neon, từng đám
đông người xuôi ngược trên những vỉa hè. Lão đứng ở vạch đường dành
cho khách bộ hành cùng một nhóm thanh niên da ngăm đen đang nói liến
thoắng một thứ tiếng khác và chờ hình người xanh lá. Lão đoán rằng chúng
là người Pakistan. Hay có lẽ là Ả Rập. Những suy nghĩ của lão bị cắt ngang
khi đèn giao thông chuyển màu, lão quả quyết bước qua đường đi lên ngọn
đồi về phía mặt tiền được soi sáng của Hoàng cung. Ngay cả ở đây cũng có
người, đa phần là thanh niên, đang trên đường đến hoặc đi khỏi một thứ mà
Chúa mới biết là cái gì. Lão dừng lại trên đồi nghỉ xả hơi, ngay trước bức
tượng Karl Johans ngồi trên lưng ngựa, nhìn mơ màng xuống phía Storting
và quyền lực mà ông ta đã cố đưa về Hoàng cung sau lưng mình.
Đã hơn một tuần rồi trời không hề mưa, những chiếc lá khô xào xạc khi
lão già rẽ phải giữa đám cây trong khu vườn. Lão ngả người ra sau nhìn kỹ
những cành cây trơ trụi in hình trên nền trời đầy sao. Một câu thơ chợt đến
với lão:
Cây du và cây dương, cây bu lô và cây sồi,
Tấm áo choàng đen thẫm, nhợt nhạt như thây ma.
Nếu tối nay không trăng thì hẳn là tốt hơn nhiều, lão nghĩ. Nhưng có
trăng cũng giúp lão dễ dàng tìm thấy thứ lão đang tìm: cây sồi lớn nơi lão
đã tựa đầu vào cái ngày lão biết cuộc đời mình đang đến hồi kết. Lão đưa
mắt nhìn theo thân cây lên đến tận ngọn. Cái cây này có thể bao nhiêu tuổi