lưng một kiện hàng đồ dùng, quần áo, thức ăn cho trẻ. Phía trước bụng
cũng là một “ruột tượng” tiền vàng lớn. Tay cầm roi đồng, sườn đeo đoản
kiếm. Ba nhân mạng ra phía bờ đê sông Cái, xuống một chiếc thuyền vừa
phải nhưng rất chắc chắn, đi về đâu không ai rõ.
Trần Khánh Dư sau mấy ngày điều trị khỏi vết thương ở vai. Sai người đi
dò la tung tích nhà chị Cả Lưu. Khi hay tin chị đã đưa cháu nội đi biệt tích
thì ngửa mặt lên trời mà than rằng:
- Ta đã đến chậm một bước rồi! Thật là thấp mưu thua trí đàn bà.
Rồi cho người đi tìm lại thầy Tầu để hỏi chuyện. Nhưng lão cũng bặt vô
âm tín.
Mấy ngày sau con ngựa bạch cũng lăn ra chết vì đã đến cõi. Còn con
chim ưng lông đỏ mỏ quặp cũng bay về rừng. Mọi việc rối bung lên, khiến
Khánh Dư vô cùng bứt dứt. Ông ta ra lệnh bỏ “dự án” xây trường đua ngựa,
mặc dù đã bỏ đến mấy ngàn đồng vào đó. Trần Khắc Chung đến chơi, an
ủi:
- Huynh ạ! Ngựa tái ông họa phúc biết về đâu. Như đệ đây, hồi hàn vi,
lấy vợ con nhà giầu. Nhưng khi giặc Nguyên Mông sang, ông bà nhạc hèn
nhát theo giặc. Đến khi giặc thua, triều đình thu hết điền sản, thế là đâm ra
trắng tay. Được thằng con trai, vừa rồi nó lấy con vợ chả ra gì. Đệ có mắng
nó: “Sao cưới vợ không hỏi tao!” Nó bặm môi trợn mắt quát lại: “Ông có
coi mẹ tôi và ông bà ngoại tôi ra gì đâu, mà bắt tôi việc đó phải hỏi ông?”
- Nói thật là ta quan hệ với cả ngàn đàn bà. Nhưng bây giờ ngẫm lại, thấy
không có ai cho ta được sự “sung sướng tột đỉnh” như với chị ta mới lạ
chứ! - Khánh Dư tâm sự.
- À, chuyện đó có gì là lạ đâu “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”.
Lúc đó huynh thèm cơm, thèm rượu, thèm cả đàn bà. “Buồn ngủ bỗng gặp
chiếu manh”, tự nhiên được “cơm no, bò cưỡi” sao không thấy sướng. Đến
ngay cả con chim ưng lông đỏ, mỏ quặp cũng được xơi vịt thỏa thích, chứ
không phải bắt chuột nữa là…