danh sách ra một số rất đông người theo thứ tự anh ta ưa thích, sao cho nếu
danh tính đứng ở gần đầu danh sách hoặc là không thu đủ chỉ tiêu, hoặc là
có thể thu đủ mà không cần tới lá phiếu của anh ta, thì lá phiếu vẫn còn sử
dụng được cho ai đó giúp cho người ấy đắc cử. Để nhận được đầy đủ số đại
biểu cần thiết trọn vẹn cho Nghị viện cũng như ngăn chặn không cho
những ứng viên rất nổi tiếng choán hết tất cả phiếu tán thành, cần thiết phải
để cho số phiếu được tính cho người đắc cử không vượt quá chỉ tiêu, dù
cho ứng viên có thể thu được nhiều đến đâu đi nữa: số phiếu còn lại bầu
cho anh ta có thể có phiếu bầu tính cho người tiếp theo trong những danh
sách tương ứng cần đến những phiếu ấy, và nhờ vào số phiếu còn lại ấy mà
người đó hoàn tất được chỉ tiêu. Để xác định những lá phiếu nào sẽ được sử
dụng cho một ứng viên đắc cử và những lá phiếu nào sẽ là tập hợp được
giải phóng để sử dụng cho những người khác, có nhiều phương pháp đã
được kiến nghị mà chúng tôi sẽ không đề cập đến ở đây. Ứng viên đắc cử
ấy dĩ nhiên sẽ giữ lại tất cả những phiếu bầu mà nếu không có chúng anh ta
sẽ không đắc cử; và đối với số phiếu bầu còn lại thì tiến hành rút thăm có
thể là một phương cách không thể phản đối vì không có cách nào khác tốt
hơn. Các phiếu bầu có thể được chuyển đến một cơ quan trung ương để
kiểm phiếu, số phiếu thứ nhất, thứ hai, thứ ba v.v… bầu cho mỗi ứng viên
được xác định, và chỉ tiêu có thể được phân phối cho bất cứ ai đạt được nó
cho tới khi số chỗ trong Nghị viện được hoàn tất: những phiếu bầu thứ nhất
được ưu tiên hơn thứ hai, phiếu bầu thứ hai ưu tiên hơn thứ ba và cứ như
thế tiếp theo. Những lá phiếu và tất cả các yếu tố tính toán có thể đặt ở nơi
lưu trữ mà tất cả những ai quan tâm đều có thể tiếp cận được; và nếu bất cứ
ai thu được chỉ tiêu mà không đắc cử một cách sai lầm thì người ấy dễ dàng
có thể chứng minh được điều đó.
Đó là những điều khoản chính của kế hoạch. Để biết cặn kẽ hơn cơ
chế rất giản dị của nó, tôi phải chỉ dẫn tham khảo bản Luận thuyết về Bầu
cử các Đại biểu của ông Hare (một cuốn sách mỏng xuất bản năm 1859)
và bài chính luận của ông Henry Fawcett (hiện là Giáo sư môn Kinh tế
chính trị học ở Trường đại học Cambridge) công bố năm 1860 và có nhan